Image
Kính chào quý khách đến
bảo tàng cải lương Nam Bộ

Bác Ba Phi

Bác Ba Phi là một nhân vật trong văn học dân gian. Ông là nhân vật chính trong những câu chuyện kể về cuộc sống sinh hoạt thường ngày nhưng được cường điệu quá đáng (như rắn tát cá, chọi đá làm máy bay rơi, leo cây ớt té gãy chân...) và được trình bày một cách tự nhiên khiến người nghe hoàn toàn bất ngờ và bật cười. Ông là nhân vật cận đại nhất trong lịch sử kho tàng truyện trạng (nói dóc) của văn học Việt Nam.

Nguyên mẫu cuộc đời

Nhân vật nguyên mẫu của Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, vốn có khiếu kể chuyện rất phong phú và đặc sắc, được nhiều người ưa thích.

Ông sinh năm 1884 tại tỉnh Đồng Tháp, do gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi tám người em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời, ông trở thành một lao động chính trong gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, cày cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông thường tham gia tụ họp đờn ca, và được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể trọng tính tình vui vẻ, bộc trực, khẳng khái, đặc biệt là những câu chuyện kể và cách kể truyện lôi cuốn người nghe của ông.

Vốn làm tá điền cho Hương quản Tế - một địa chủ giàu có vùng Bảy Ghe, ông được Hương quản Tế hứa gả cô con gái là Ba Lữ với điều kiện phải làm công trong ba năm. Nhờ sức chịu thương chịu khó, nên sau ba năm thì ông cưới được vợ. Cũng do điều này mà Hương quản Tế rất yêu thương người con rể này và đã cắt chia cho vợ chồng Ba Phi khá nhiều đất. Cộng với sự cần cù sẵn có, ông đã ra sức khai khẩn phần đất được chia thành đồng ruộng cò bay thẳng cánh.

Hai người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng ra cưới vợ hai cho chồng. Bà này sinh được một người con trai là Nguyễn Tứ Hải. Không rõ vì lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba tuổi, bà đã gửi con cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời. Ông Nguyễn Tứ Hải về sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một người con trai – cháu đích tôn của bác Ba Phi – tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong những câu chuyện của bác Ba Phi thì đây chính là nhân vật thằng Đậu nổi tiếng. Và cũng có thành ngữ "Tệ như vợ (thằng) Đậu" được dùng để chỉ những người vụng về.

Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba. Bà tên Chăm, là người dân tộc Khmer. Bà sinh được hai đứa con gái.

Bác Ba Phi qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1964 tại rừng U Minh Hạ, nay là ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ của ông được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải nằm ở một góc rừng U Minh Hạ.

Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi được xây dựng thành tuyến du lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau.

Những nét đặc sắc văn học

Bác Ba Phi thuộc lớp hậu duệ của những tiền nhân đi khai mở đất rừng U Minh. Cả quãng đời, mà đặc biệt là thời tuổi trẻ của bác Ba Phi, là quá trình khai phá đất rừng U Minh nguyên sinh, vốn rất hào phóng mà cũng lắm khắc nghiệt. Với tinh thần khai phá, tính lạc quan yêu đời, thế giới quan của ông hiện ra thật sinh động và đáng yêu.

Những câu chuyện kể của ông, truyện nào cũng mang lại cho người nghe trước hết là tiếng cười sảng khoái, mượt mà âm sắc trào lộng, rất đặc hiệu Ba Phi, đồng thời nó còn ẩn chứa tính hào hùng của lớp người đi mở đất, tính cách đặc trưng Nam Bộ, lòng yêu thương thiên nhiên và con người.

Cho đến tận ngày ông qua đời, không có một văn bản nào chính thức có ghi chép lại những câu chuyện do ông kể, kể cả người trong thân tộc ông. Những câu chuyện kể của bác Ba Phi là những câu chuyện truyền miệng. Tuy nhiên, nó cũng đầy đủ hình thức cấu trúc văn học: mở đề, thắt nút và kết thúc. Một mặt, nó cũng hao hao một loại tiểu thuyết chương, hồi rút gọn, dù có đảo lộn trật tự thế nào cũng giữ được ý nghĩa và tính xuyên suốt của những câu chuyện kể độc lập.

Những câu chuyện của bác Ba Phi, do tính chất "truyền miệng", vì vậy thường bị “biên tập” hoặc “hiệu chỉnh” lại trong quá trình câu truyện “lưu lạc”. Thêm vào đó, cũng có không ít những câu chuyện do người khác sáng tác, nhưng vẫn lấy danh xưng bác Ba Phi.

           Năm 2002, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cà Mau tổ chức hội thảo chủ đề “Hiện tượng Ba Phi trong văn hóa dân gian Việt Nam”, với sự tham gia của nhiều giáo sư, tiến sĩ và các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian trong cả nước. Cũng trong năm đó, Bác Ba Phi được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam  phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian. 


Nơi thờ tự Bác Ba Phi

    Từ Cà Mau, theo tuyến lộ Cà Mau - Đá Bạc, đi khoảng hơn 30 cây số, đến xã Khánh Hưng bao đò vô kênh Chín Bộ, quẹo phải đến kênh Lung Tràm vài trăm mét là đến nhà Nguyễn Long Phi (Bác Ba Phi). Tại đây, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Văn Đáp, là cháu rể kêu Bác Ba Phi bằng ông nội. Được ông giới thiệu người truyền khẩu truyện Bác Ba Phi. Ông nói, dân Lung Tràm xã Tân Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau không ai mà không biết các ông Sáu Nhuận, Bào Văn Thái, Trần Văn Danh... nhưng theo quy luật sanh tử nên hiện nay chỉ còn một mình ông Trần Văn Danh, gọi là ông Năm Danh, ông Năm truyền khẩu. Năm Danh năm nay đã 63 tuổi, nhưng trông vạm vỡ, cao to không khác gì “lực sĩ nơi Lung Tràm U Minh Hạ”. Hôm chúng tôi đến, ông đang đi xã mua dầu bơm nước chuẩn bị sạ lúa, nghe đứa cháu nội báo có nhà báo tới, ông bơi xuồng  quay về.

Kênh Lung Tràm - đường vào nhà Bác Ba Phi                           Ông Năm Danh ra bộ theo truyện kể “Gác kèo ong mật”

           Căn nhà của ông chỉ cách phần mộ Bác Ba Phi không đầy 200m, nhưng ông một mực muốn tiếp chúng tại ngôi nhà thờ Bác Ba Phi hiện đang bỏ hoang, mưa nắng bào mòn dột nát, trong nhà chỉ còn có bàn thờ Bác Ba và bộ giường tre. Bà Năm, vợ ông kể lại: “Ngày Năm Danh về với làng này từ hồi còn thanh niên, trông ông khỏe mạnh, cao to, nhưng đi với Bác Ba Phi lại một trời một vực. Bác Ba cao to lắm. Từ nhỏ, ổng hay theo Bác Ba Phi đi làm ruộng, nên thân hình gân guốc và lớn mạnh như thế.

Nhưng chính Bác  Ba Phi, là những người truyền lại truyện cười dân gian Nam bộ, nó như những truyện cổ tích giữa đời thường đã ăn sâu vào tâm hồn của Năm Danh từ tấm bé. Hồi đó, Năm Danh rất khoái Bác Ba Phi kể chuyện, nhưng lại “ngán” Bác Ba mỗi lần “xỉn” là bắt ông đưa về. “Ngán” nhưng vẫn theo. Những lần nằm trên bắp đùi nghe Bác Ba Phi kể chuyện cho người dân trong xóm nghe bằng những câu chuyện cười ca ngơi sự trù phú của vùng đất U Minh, chuyện về trăn tát đìa, cọp xay lúa, cá lóc ăn dừa khô, chém trực thăng... với những tiếng cười ôm bụng của mọi người, đã làm ông nhớ mãi. Chuyện Ba Phi ngấm vào máu thịt, tâm hồn ông bởi những nghệ thuật ngôn từ, thi pháp kể chuyện dân gian... Ký ức ấy nuôi dưỡng ở Năm Danh và trở thành niềm đam mê kể chuyện cười tiếu lâm Bác Ba Phi từ những ngày vác phảng đi phác cỏ ruộng, kéo ống bơm nước vào ruộng, hay đặt lờ và cả những ngày đi gặt vần công ở tận cánh đồng Ngã tư Chủ Mía...

 

Ông Năm Danh hay hút những hơi thuốc thật dài sau những câu truyện kể        

Ngày 3 tháng 11 năm 1964, Bác Ba Phi qua đời, ông tổn thất lớn về tinh thần. Bởi ông coi ông dượng Ba Phi là thần tượng có một không hai của thế gian này. Ông suy tôn Bác Ba Phi là “Vua Trạng đất phương Nam”. Quyết không thể để truyện cười của Nam bộ mất đi, Năm Danh bắt đầu đem truyện cười Bác Ba Phi kể cho dân làng nghe sau những buổi làm ruộng, vườn, những đêm đi tuần đất về tụ tập nhau uống rượu. Năm Danh vừa lai rai, vừa kể chuyện quên cả thời gian, có khi tàn cuộc vui đến gà gáy sáng vẫn chưa hết chuyện. Tôi hỏi sao thuộc nhiều truyện của Bác Ba Phi quá vậy, Năm Danh cười nói: “Ông Ba Phi là ông dượng của tui, mà tui hồi nhỏ lúc nào cũng theo kè kè ông hết, hễ ông kể mẩu chuyện nào thì tui thuộc làu làu, làm sao mà quên được”.


Ngồi trước bàn thờ Bác Ba Phi, ông Năm Danh nói chỉ kể những truyện mà chính ông đã được Bác Ba Phi truyền lại

           Có những câu chuyện mà tôi tâm đắc, chẳng hạn như kể chuyện Rùa làm ổ cho ông Bảy Bền, ông Năm Tôn nguyên là cán bộ công an của huyện nghe về chuyện hàng trăm con rùa vàng đang làm ổ đẻ trứng trong đám sậy. “Tụi mầy muốn ăn rùa thì tiếp tao dọn hết liếp sậy, tao cho hết mấy ổ trứng rùa về ngoải mà nhậu!” Tưởng Bác Ba nói thật, hai ông liền vác phảng ra phác hết đám sậy, nhưng không thấy một ổ rùa nào. Bác Ba liền nói “ý mà Bác quên, bây giờ mới nửa tháng 11 hà, rùa còn ẩn mình dưới ruộng, nó chưa chịu lên. Thôi vô đây lai rai với tao một vài ly rồi về. Cuối tháng vô đây tao cho đám sậy khác mà bắt”.

Truyện cười của Bác Ba Phi là một pho truyện cười của Nam bộ, nếu như ở miền Bắc có Trạng thì ở Nam bộ có Bác Ba Phi. Hiện nay có nhiều cuộc hội thảo, sưu tầm, nghiên cứu về đề tài này, nhưng có lẽ hiệu quả nhất, gần gũi với người dân ít chữ như vùng Lung Tràm chính là hình thức truyền khẩu. Những người kể truyện Ba Phi như Nguyễn Văn Nhuận, Bào Văn Thái đã về với Bác Ba Phi, nhưng để lại cho đời một hình thức kể chuyện truyền khẩu cho rất nhiều người, như ông Năm Danh, anh Nam Tiên, chị Hai Minh... Có lần tôi cùng người dân trong xóm tập trung ngồi xung quanh bộ giường tre của từ đường Bác Ba để nghe Năm Danh kể chuyện

Phần mộ của Bác Ba Phi và hai bác gái

   . Những câu chuyện vui như Chém trực thăng, Heo đi cày, Cá trê Lung Tràm, Gác kèo ong mật... mọi người đều cười lên thích thú. Năm Danh vừa kể vừa ra bộ, có lúc lại nằm tréo cẳng ra, tay cầm điếu thuốc đưa lên miệng, nhả khói phì phà theo nội dung câu chuyện. Nhiều đứa trẻ nghe hấp dẫn đến nỗi hả hốc mồm, nước miếng nhễ nhại mà không hay biết. Ông kể từ 2 giờ chiều đến trời tối. Ếch, nhái, ễnh ương kêu inh ỏi mà mọi người vẫn háo hức ngồi nghe.

Ông Năm Danh thật vui tánh, nhưng cũng rất dễ “tự ái nghề nghiệp”. Nếu thấy mọi người giục “ừ, ừ hay quá he ông Năm, kể thêm nữa đi thì kể tiếp, có những câu chuyện dài kể tới khô lưỡi mới hết. Cứ kể hết một mẩu truyện là ông năm hút điếu thuốc và uống một ly rượu lấy giọng. Nhưng nếu nói ông Năm nói chữ là tự ái đứng dậy, ra về.
 

Nguyễn Văn Đập, cùng con cháu Bác Ba Phi thắp hương trước bàn thờ

           Chỉ hai, ba năm trở lại đây, khi các ông vua truyền khẩu truyện Bác Ba Phi qua đời, và hiện nay tuổi đã cao, sức yếu, nên ông Năm Danh ít đi xa như thời trai trẻ. Dân trong vùng muốn nghe chuyện thì tới nhà mời. Các đoàn tham quan từ khắp nơi đến viếng phần mộ Bác Ba Phi thì ông đến ngôi nhà thờ Bác Ba hoặc ngồi ngay tại phần mộ làm vài truyện. Ông nói “tui chỉ kể những truyện mà tôi biết từ khi theo ông dượng Ba Phi và được ông truyền lại, truyện thật 100%, chứ những truyện bịa tui không dám kể trước phần mộ ông”.

Và những chuyện “cười” ra nước mắt!
             

Những truyện Bác Ba Phi đem lại cho người đời những tiếng cười đến ôm bụng, thì hiện nay mọi người có đến viếng ông chắc hẳn sẽ cười, nhưng “cười đến ra nước mắt!”. Cười cho những đứa cháu nội của ông (con của bà Nguyễn Thị Anh, dâu của Bác Ba Phi) tranh giành phần đất do ông Ba Phi để lại. Ba Phi qua đời, vợ chồng Bà Anh là người thờ tự và khi chồng bà Anh qua đời, Bà chia phần cho các con mỗi người đôi ba công đất. Con thứ ba là Nguyễn Quốc Trị được bà chia cho một phần đất nằm ngang, nhưng ông đòi phải là xuôi theo mặt tiền kênh Lung Tràm. Bà không bằng lòng. Vậy là ông chặt ngón tay thề không lấy đất của mẹ. Người con thứ năm cũng có phần 6 công ruộng, một miếng vườn. Bà túng thiếu nên cố (cầm) cho gia đình đứa con thứ năm 7 chỉ vàng và bằng 30 giạ lúa/năm. Nhưng khi bà lấy lúa thì con của bà ra điều kiện: khi nào bà làm sổ đỏ, tui mới đong lúa. Đến khi bà nhờ đến chính quyền can thiệp thì mới được nhận lúa, nhưng đợi đến mùa sau mới đong. Những tưởng bà Anh ở với người con gái thứ hai cùng với bà để hương khói Bác Ba và tổ đường, nhưng khi con gái có chồng, bà không bằng lòng. Bà phản đối vì người chồng đã có vợ có con. Vậy là con gái thứ hai của bà dọn đồ trong nhà ra đi. Bà Anh cô đơn một mình, bà không dám ở, nên theo con gái thứ tư về tận Cà Mau để sống những ngày còn lại.


Vách nhà nơi thờ tự Bác Ba Phi

Bà Anh ra đi, để lại một căn nhà ba căn, vách lá đổ rách. Nơi mang tiếng cười đến với mọi người giờ chỉ là nơi lạnh lẽo, hoang sơ. Duy nhất người con rể thứ tư của bà Anh sống có tình có nghĩa. Hằng ngày ông đến quét dọn, thắp hương cho ông nội và tổ đường, ông hiện nay sắp tuổi lục tuần, chỉ mong chính quyền địa phương quan tâm hòa giải sao cho hợp tình hợp lý, để sớm xóa đi nỗi quạnh hiu trong căn nhà – nơi còn đó một di ảnh Bác Ba Phi, ông vua truyện cười của vùng đất phương Nam.

 

             Bà Anh ra đi, để lại một căn nhà ba căn, vách lá đổ rách. Nơi mang tiếng cười đến với mọi người giờ chỉ là nơi lạnh lẽo, hoang sơ. Duy nhất người con rể thứ tư của bà Anh sống có tình có nghĩa. Hằng ngày ông đến quét dọn, thắp hương cho ông nội và tổ đường, ông hiện nay sắp tuổi lục tuần, chỉ mong chính quyền địa phương quan tâm hòa giải sao cho hợp tình hợp lý, để sớm xóa đi nỗi quạnh hiu trong căn nhà – nơi còn đó một di ảnh Bác Ba Phi, ông vua truyện cười của vùng đất phương Nam.

Một số câu chuyện của bác Ba Phi ( Sưu tầm )

1 - CHIM CHUỘT Ở U MINH

           Năm đó, tui làm đám mạ ở gần mé rừng. Nói là “làm đám mạ”, vậy chớ có làm gì đâu. Ở xứ này mà, tháng hạn châm một mũi lửa là mặt đất bị cháy sạch. Chờ tới sa mưa, đội lúa giống ra, coi chỗ nào ưng ý là gieo.
            Giống lúa tôi đã ngâm lên đủ ba càng, một mộng đàng hoàng, từ trong nhà đội ra. Bữa đó trời trong, im gió, nhưng không biết sao tui nghe dường như có mây che mù mịt trên đầu, có cả tiếng gió rì rầm đâu xa xa nữa. Ra đến nền đám mạ, tôi để thúng lúa giống trên đầu xuống. Thì... trời ơi ! Chim dòng dọc với chim lá rụng nằm đầy nhóc một thúng giạ. Chúng đã ăn sạch sẽ cái thúng lúa giống của tui, không còn một hột để nhổ râu. Nghe động, chúng bay lên cái rần, chỉ còn lại các thúng không.

 

Tức quá, tui về nhà ngâm thêm một gịa lúa giống nữa. Vài ngày sau, tui cũng đội lúa ra gieo y nền cũ. Lần này biết khôn, tui không để thua mấy con chim này nữa. Một tay tui vịn thúng lúa, một tay cầm nhánh chà quơ quơ phía trên đầu. Vậy mà tới đám mạ, thúng lúa cũng bị chim ăn hết phân nửa.

 

 

 

Bây giờ mới bắt đầu gieo hột. Tui cặp thúng lúa vào nách, đi thụt lùi, vãi ào ào. Vãi hết thúng lúa giống, đến chừng coi lại thì không có một hột nào rơi được tới đất. Chuột ! Chuột đứng xếp hàng. Con nào cũng vậy, một tay chắp sau đít, một tay đưa ra hứng lúa. Chúng vừa ăn, vừa vuốt râu. Có mấy con chuột già không hứng lúa để ăn, ngồi ngoài rìa đám mạ, mặt mày buồn thiu./.

 

 

2 – NẾP DẺO

“Gần tết năm đó,bac ba Phi cùng Đậu cháu ông và con chó mực đi đến nhà ông Hai Móm ở đầu xóm chơi. Thấy khách đến nhà, nên ông Hai Móm mới lấy bánh ít lên đãi khách. Vì là chủ nhà nên ông ăn trước, nhưng khi ông Hai ăn bánh thi không thấy nói gì nữa mà chỉ ra hiệu cho bác Ba Phi ăn bánh. Do bánh ít quá dính nên bác ba phi phải gỡ một lúc mới ra, nhưng mạnh tay quá làm văng luôn miếng bánh dính lên cây cột nhà. Con chó mực thấy vậy liền nhảy lên táp miếng bột. Tức thì con chó dính luôn lên cây cột. Ông hai thấy vậy mắc cười quá, cười phá lên làm văng luôn miếng bánh trong miệng ra. Miếng bánh văng trúng luôn bàn thờ kèm theo là hàm răng giả cua ông Hai, con chó thấy vậy bay qua táp miếng bánh trên tủ thờ và táp luôn hàm răng gia cua ông Hai Móm .

3 – CỌP XAY LÚA

“Đêm hôm đó, lúc tôi đang xay lúa, bỗng nghe hơi cọp, liền biết “ông thầy” đang rình bên ngoài. Nhờ biết trước, tôi vừa xay lúa vừa thủ thế. Quả nhiên, trong chớp mắt cọp nhào vô chụp tôi. Tôi liền né sang bên. Cọp lỡ đà vướng hai chân trước vào giằng xay. Thế là nó sa đà theo vòng quay của cái cối đang quay. Thấy vậy, tôi hối “Bả” xúc lúa đổ vào cối. Đợi cho tới lúc cọp xay hết 20 giạ lúa, tôi liền hét lên một tiếng thật to: “Cọp”! Nó hoảng quá, đâm đầu chạy tuốt ra rừng. Từ đó về sau cọp “bỏ tật” bắt người ăn thịt”.

4 – CÂU ẾCH

“Năm rồi, trời sa mưa đầu mùa, ếch kêu khắp bốn phía, đâu đâu cũng có tiếng “uệch uệch”. Chỉ riêng trong vườn nhà tôi có một tiếng ếch rất đặc biệt, nó kêu đến cảm thấy thèm ăn thịt ếch mà ngủ không yên. Tôi biết đây là loại “ếch bà”.

Sáng hôm sau, tôi bắt một con vịt mới nở làm mồi, trong khi tôi thả con mồi chưa tới mặt nước thì con ếch từ trong hang ló ra; nó lắc đầu lia lịa rồi ngồi chờ ở miệng hang.

Tôi biết con ếch này đòi ăn mồi lớn, tôi bắt con vịt mái đẻ ra câu. Vừa trông thấy con mồi, con ếch gật đầu liên tiếp mấy cái rồi hớp nước súc miệng. Xong, ếch khoát tay ra hiệu cho tôi thả con vịt mái xuống. Thế là ếch đưa hai tay ra đón con mồi đưa thẳng vào mồm.

Đợi cho ếch nuốt mồi xong, tôi giật mạnh một phát. Té ra, hàng cau của tôi gãy liền một lúc đến 3 cây, con ếch thì vẫn nằm yên tại chỗ. Còn sợi nhợ câu lúc này căng thẳng tối đa. Thấy vậy, tôi ngồi xuống khảy vào sợi nhợ ấy mà ca luôn 6 câu vọng cổ”. 

5 – VỎ QUÝT DÀU CÓ MÓNG TAY NHỌN

    Dân sống vùng quê sợ nhất là mỗi lần nghe lính đến càn. Chữ “càn” của nó rất đa nghĩa. “Càn” gà vịt của người ta, “càn” cả phụ nữ, già hổng bỏ, nhỏ hổng tha. Ngoài ra, mục tiêu chính nữa của chúng trong các cuộc đi càn là càn của cải, tiền bạc.

    Mới sáng sớm, mà Hai Lúa đã qua tìm tao than thở :

 

   - Kỳ này, tụi lính đồn nó đi càn quặn dữ đa. Nó đã hốt sạch bầy vịt hai trăm con, không còn lấy một mống.

Tao chưa kịp trả lời thì thằng Tư Ruộng đã chống xuồng qua tới :

    - Chú Ba ! Tụi lính đồn đã khen con heo của tui hai tạ mấy, nó còn khen tui khéo nuôi nên con heo mập ú ù.

    Nghe nó nói, tui tức muốn ói máu.

    Câu chuyện chưa dứt, thì xuồng của bọn lính đã tới lộ quẹo. Bọn chúng đi tới đâu, heo, gà, vịt kêu nhoi trời tới đó khiến Ba Phi này nóng mũi. Vỗ vai Hai Lúa, an ủi Tư Ruộng, tao gằn lời :

    - Được. Mọi người cứ để tui kêu tụi nó thả vịt, heo ra cho. Giờ Tư Ruộng ra đầu hè lượm mớ bọng dừa khô gom lại, nhóm lửa đốt cho có than.

    Thấy thằng trưởng đồn dẫn lính tới sát vách nhà, tao cố nói lớn :

    - Nhóm cho có thật nhiều than nghen ! Còn tui sẽ xuống mương mò bậy vài chục tôm càng xanh lên làm mồi nhậu chơi.

    - Bộ trong mương vườn ông có tôm càng hả ? - Tên trưởng đồn sáng mắt.

    Tao lặng thinh, lẳng lặng cởi áo lội xuống kinh bắt đầu vớt tàu dừa, mo nang, bọng dừa quăng lên bờ cho sạch hai bên bờ kinh. Sau đó, tao mò theo cặp nước bắt tôm thảy lên, kêu Hai Lúa, Tư Ruộng bỏ vô bếp than nướng, rồi rủ thằng trưởng đồn cùng nhậu.

    Ăn một hơi hết mấy cái đầu tôm, uống hết mấy chung rượu áp sanh đậm đà hương vị nên thằng trưởng đồn khoái chí :

    - Này, bác Ba ! Bác có thể kiếm cho tui mấy cái mương vườn kiếm tôm ăn chơi không ?

    - Ôi thôi ! – tao xua tay nói xỏ - Mò tôm chi cho cực. Nội ba con gà, con vịt ông nhậu khẳm rồi, lặn hụp chi cho nó lạnh.

    Biết tao nói lẫy nên thằng trưởng đồn cụng ly nốc cạn, rồi quay ra nói lớn :

    - Tụi bây đâu ! Trả heo, trả vịt hết đi rồi hết thảy lột đồ nhảy xuống mương mò tôm càng về tao nhậu một bữa cho đã coi.

    Thằng đồn trưởng lại tiếp tục nhậu, trong lúc tụi lính ngâm mình đến lạnh mặt, xanh môi mà chẳng được con tôm nào, đã thế còn bị thằng trưởng đồn mắng như tát nước vào mặt.

    Tao gục gặc đầu :

    - Muốn mò có tôm, trước hết để có tôm phải làm sạch mương như tao đã làm lúc nãy, tụi bây làm không đúng bài bản thì làm gì có chớ.

    Đám lính lại nhảy xuống mương dọn sạch mấy chục liếp vườn cho tới khi trời tối. Cuối cùng tụi nó xúm nhau khiêng thằng đồn trưởng say mèm ra về, bỏ luôn cuộc càn.

    Đêm đó, Tư Ruộng và Hai Lúa đều muốn biết tại sao tao mò có tôm, còn chúng thì không, tao vuốt râu cười khà :

    - Tôm ấy là do tui bắt ngày hôm qua. Khi chúng đến, tui xách rọng tôm ra thả xuống rồi lại bắt lên, khó khăn gì nào.

6 – DIỆT TÀU

 

             Nghe phong thanh tàu sắt Mỹ kéo tới để tóm cổ bằng được tên “Vi Xi” Ba Phi, tao đổ quạu :

 

    - Muốn diệt tao à, không dễ đâu.

 

             Sau mấy ngày suy nghĩ đến nát óc, tao cũng nghĩ ra cách để chống lại ý định của bọn chúng. Tao liền rủ thằng Đậu đi thẳng tới lò rèn quen trong xóm, nhờ ông chủ rèn nối lại mười lưỡi cưa sắt thật dài. Vốn rất nể nang tao, ông thợ rèn hì hục làm gấp mà không hỏi han gì hết.

 

           Cuối cùng, số lưỡi cưa sắt được nối xong. Tao bèn biểu thằng Đậu phụ tao một tay mang số lưỡi cưa ra sông Ông Đốc. Hai ông cháu tao lại è ạch chèo xuồng chở mớ cưa sắt đi. Tới nơi, tao chỉ cách cho thằng Đậu làm, mang lưỡi cưa sắt ra căng xéo ngang sông Đốc, khúc quẹo vàm Rạch Lùm.

 

    - Nhớ day hướng răng lưỡi cưa ra mé biển đấy. – Tao dặn thêm thằng Đậu.

 

           Cứ thế, ông cháu tao tiếp tục căng cho hết mấy lưỡi cưa còn lại, mỗi lưỡi cách nhau mười thước ngập dưới mặt nước độ một gang tay. Như vậy, trận địa đã được bố trí xong, dài đâu khoảng một trăm thước. Dưới sông đã xong, giờ lo chuyện trên bờ.

 

           Tao với thằng Đậu đi thu lượm hết những mảnh lưới rách trong làng, và cắt một đống dây chuối khô đem về. Sau đó, ông cháu tao mang lưới rách và dây chuối khô ra cột khắp trên các ngọn cây cao ở hai bên bờ sông. Còn lại mấy khoảng đất trống, tao dùng mớ tầm vông vạt nhọn, cắm nhô lên dày đặc khắp nơi.Sáng hôm sau, tao dẫn thằng Đậu ra bờ sông tìm một địa điểm an toàn để núp và chờ đợi. Mặt trời vừa nhô lên cỡ một sào, thì bọn Mỹ từ ngoài hạm đội, cho mười chiếc tàu sắt chở một tiểu đoàn, súng cầm tay lăm lăm sẵn sàng nhả đạn vào hai bên bờ. Chúng rú hết ga tiến thẳng về phía sông Đốc. Tới ngã ba Vàm, chúng cho tàu quẹo ngay vào. Tao nhổm dậy, căng mắt ra nhìn. Một tiếng kêu rởn tóc gáy, chiếc tàu sắt của Mỹ bị lưỡi cưa của tao tiện ngọt xớt phần dưới nước chừng một gang tay, chiếc tàu rung lên dữ dội, tuy nhiên nó vẫn còn trớn lao vút tới trước như tên bắn. Đến lúc hết trớn, tàu từ từ chạy chậm lại, còn lại khung thành tàu phía trên lỡ trớn chạy tới được vài chục thước thì chìm dần, bọn lính lọt hết xuống sông, lội bì bõm như chuột mắc nước. Rồi chiếc thứ hai, thứ ba... đến chiếc thứ mười cùng chung số phận.Nhìn cảnh bọn chúng nháo nhào mà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, hai ông cháu tao núp trong lùm cười đến suýt nữa là bể bụng.

 

7 – SỢI DÂY THẦN KỲ

           Kể từ khi tao và thằng Đậu mang được con trăn gấm từ miệng đìa về nhà đắp thuốc, lại là vết thương do chà gạc nai đâm phải, con trăn đã bình phục trở lại. Nó có thể tự mình đi kiếm ăn nhưng thường thì nó ở nhà nằm khoanh trước chòi, hoặc đeo lên cháng ba của cây bần to ở cạnh đìa cá. Nó ít khi ra ngoài, cũng ít khi đi xa như mọi khi, làm như lần tham ăn nai ấy đến nỗi phải mang thương tích đầy mình đã khiến nó nhớ đời.

 

    Ngó bộ con trăn ốm đi rất nhiều, do thằng Đậu không thể cung cấp thức ăn đầy đủ cho nó được.

    Sức ăn của nó mỗi ngày trên dưới mười ký lô chớ chẳng chơi đâu. Mà thằng Đậu thì còn bận trăm công ngàn việc.

    Cũng như mọi khi, tối nay, trước lúc đi ngủ, thằng Đậu đã xem kỹ con trăm gấm đang nằm khoanh một đống lù lù trước cửa. Nhưng khi gà gáy hiệp hai, thằng Đậu thức dậy thì không thấy con trăn đâu cả.

 

    - Hừm ! Chắc nó lại giở mửng cũ ra ngoài kiếm ăn rồi.

    Thằng Đậu nghĩ vậy và trở vô ngủ tiếp. Bỗng, bên ngoài có tiếng người lao xao, rồi Hai Lúa cầm đuốc băng vườn lội qua.

    - Lạ quá đi, vợ tui thức giấc nửa đêm, đi ra sau hè rồi không thấy vô nữa.

    Đang ngủ, Ba Phi tao ngồi bật dậy, hỏi thằng Đậu:
    - Con trăn gấm đâu?

    - Con cũng không biết nữa nội à. Lúc tối nó nằm trước cửa, nhưng giờ đã đi mất tiêu rồi.

    Ba Phi tao đổ mồ hôi hột, chạy vào trong lấy cây mây trên hai trăm tuổi rồi giục Hai Lúa:

    - Anh Hai quơ đuốc sáng rồi theo tui ra vườn.

    Không hiểu chuyện gì, nhưng thằng Đậu cũng lót tót chạy theo.

    Tao vừa đi vừa quơ cây mây tìm kiếm. Cuối cùng, tao phát hiện ra con trăn gấm đang há miệng, rướn cổ nuốt... thím Hai Lúa, nhưng lại nuốt từ chân lên, nên nửa người của thím với hai cánh tay vẫn còn đang chống dưới đất, có lẽ sợ quá nên thím hai đã bị á khẩu. Còn Hai Lúa, khi thấy vợ mình bị trăn nuốt thì chỉ la lên được một tiếng rồi té xỉu.

    Tao hào hển nói với thím Hai Lúa:

    - Chị Hai bình tĩnh nghen, tui sẽ có cách cứu chị ngay.

    Tao vừa nói vừa rút cây mác mây thọc vào miệng con trăn. Sau đó tao cố hết sức chống cây mây lên, đẩy cho miệng con trăn gấm há miệng to ra. Vừa đẩy, tao vừa lẩm nhẩm như đọc thần chú:

    - Dài ra, nữa... nữa...

    Cây mây như có sức mạnh thần kỳ, nó đẩy được miệng con trăn gấm từ từ há rộng, chẳng chút chấn chừ, tao vội nắm lấy hai cánh tay của thím Hai Lúa đang chới với một cách tuyệt vọng, kéo thật mạnh. Cả người thím Hai vụt khỏi miệng con trăn.

    Hụt mất con mồi, bây giờ lại mắc cây mây, con trăn tức giận thở khì khì mấy tiếng rồi phóng chạy vào rừng mất dạng.

8 – BA PHI LÀM THẦY BÓI

    Mấy hôm nay, Hai Lúa cứ nghe thằng Út của mình nói mãi về ông thầy bói hổng biết từ đâu tới coi tướng, coi tay hay hết biết luôn. Từ khi ông ta tới, lối xóm coi đông nghẹt.

  • Ba biết hông. - Thằng Út huyên thuyên - Ngay cả ông hội đồng dữ tợn thấy mà vẫn phải sợ ổng. Cả tuần nay, ông ra rước ổng về cơm nước, trà rượu hẳn hoi với tiền công lên tới hàng trăm đồng chỉ để coi tiền vận, hậu vận gia đình ông ta. Ổng nói ông hội có nhiều vợ lẽ, con rơi nên gia đạo bất an, nếu không tích đức như đem của cải chia sớt cho người nghèo, giảm thuế ruộng, thuế đất thì sau này cuộc đời sẽ khốn khổ, hổng chừng lại bị tù đày.

    - Hừ ! Nói vậy tao nói cũng được. - Hai Lúa xua tay.

   Thằng Út cãi lại :  - Tại ba không tin thôi, chứ còn nhiều chuyện lạ nữa kìa. Như chuyện chú Tư, ổng coi tay, coi tướng một lát rồi nói : Bàn tay chú có tài lộc đang chờ, nhưng ngặt tuổi kỵ màu đỏ, màu đen. Nếu chú giải được nạn đó thì nên đi qua Rạch Ráng xin lỗi bà nhạc gia rồi rước vợ về cho yên gia đạo. Mượn luôn vài chục công đất đi mua lúa cày cấy liền tay cho tới Tết thì trong nhà chú lúa không dưới năm trăm giạ, gia đạo yên, tiền tài vô như nước. Còn việc kỵ màu đen, nếu bỏ đá gà, bài bạc, đánh đề thì xong tuốt.

  •  

    Nghe thằng Út kể tới đó, Hai Lúa đòi đi xem mặt lão thầy bói. Nhưng khi vừa thấy Hai Lúa, ông thầy bói đã tái mặt. Còn Hai Lúa, nhìn lão thầy bói thấy râu giả, kiếng che mặt và gương mặt hao hao giống ai đó, Hai Lúa ra về thì thầy bói cũng nhổ neo đi mất.

    Mấy năm sau, trong một lần có “rượu vào lời ra”, Hai Lúa chợt hỏi :

    - Năm đó tại sao chú bỏ trốn ?

    - Không trốn anh lật tẩy à ? - Ba Phi tao cười khà - Chuyện tui làm thầy bói thiệt tình tui có muốn đâu. Cũng bởi, tui thấy bà con mình mê bói toán, nên tui mới làm vậy với ý định hạn chế phần nào tệ nạn xã hội ở xứ mình thôi mà. Anh Hai nhớ đi, tui xủ quẻ cho họ mà tui lấy đồng nào không ? Lúc tui gặp anh, tui giận lắm vì bị anh phá ngang xương, nhưng nghĩ lại mới thấy chuyện anh tới là đúng lúc, chớ để tui hết bài, nói ẩu không chừng hậu quả ngược lại ý muốn của mình thì chết cha.

9 – BÁC BA PHI RA TỈNH

    Ở mãi trong rừng, làm bạn với khỉ, nai, rắn, rít cũng buồn. Một lần nọ, Ba Phi tao khăn gói ra tỉnh chơi.

    Chân ướt chân ráo, lại nhiều năm làm anh nông dân miệt quê chính hiệu nên khi ra đến chợ Cà Mau, nhìn đường phố, nhà cửa được nâng lên cấp hai, cấp ba gì đó tao cứ như từ trên trời rơi xuống, lơ ngơ, láo ngáo mặt mũi bơ phờ ngơ ngác chẳng ra sao hết.

    Đi bộ còn chả xong, vậy mà tao cũng học đòi thiên hạ, mượn cho bằng được chiếc xe đạp cà tàng dạo quanh phố phường. Giao xe cho tao, anh bạn quen còn dặn :

    - Cẩn thận đấy. Gặp đèn đỏ thì dừng, đèn xanh thì chạy, đường ngược chiều nhớ dắt bộ, nếu không sẽ bị cảnh sát phạt đấy.

    Phải thừa nhận một điều, Ba Phi tao rất thông minh, vừa nghe qua “câu thần chú” đi đường an toàn trên, tao đã thuộc ngay và dĩ nhiên tao nhất nhất tuân theo “câu thần chú” ấy. Thế nhưng, lúc đi ngang qua một ngã tư rộng thênh thang, gặp đèn đỏ, tao đang định dừng lại, bỗng thấy ai nấy cứ ào ào dọt qua, tao làm theo, chả ai phạt hết. Tao rủa thầm trong bụng:

: “Mồ tổ cha thằng bạn thân, bày đặt hù”. Lại thêm một ngã tư, hai ngã tư... đỏ xanh mặc tình, tao cứ dông tuốt. Ai dè, lần thứ ba, chưa hết phần đường thì bị cảnh sát đứng ở gần chỗ cột đèn thổi cái “toét” làm tao hết hồn thắng “rét” lại.

    Tay cảnh sát kêu tao dắt xe lên lề :

    - Ông có rành luật giao thông hôn ?

    - Rành chứ. Rành sáu câu à nghen. – Tao lẹ miệng.

    - Vậy sao tới ngã tư đèn đỏ mà ông còn chạy.

    - Thì tui bắt chước dân ở đây mà. Bộ chú mày không thấy họ vượt đèn đỏ hả ?

    Tay cảnh sát nuốt nước miếng :

    - Thì tại tui không thấy nên họ mới làm ẩu. Nếu để tui thấy thì chắc chắn là tui không tha rồi, như trường hợp ông vừa rồi đó. À, mà này ! Ông dưới quê mới ra phải không ?

    - Chú mày giỏi thiệt, biết tao ở quê mới ra. Phải, tui ở U Minh, tên Ba Phi nè.

    - Ủa ! bác Ba ư ? – Tay cảnh sát kêu lên – Thôi được rồi, bác dắt xe đi đi. Kỳ kèo ở đây nữa, sếp tôi thấy tôi sẽ bị kỷ luật ngay.

    Không chờ tay cảnh sát nhắc đến lần hai, tao đã phóng lên xe dọt lẹ. Dẫu sao tao cũng rất khoái chí về mình, giờ thì tao đã biết thế nào là “văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”.

10 – RÙA U MINH

    “Ai làm gì mà khói lên trong hậu đất vậy cà ?” - Đứng sau hè, thấy khói lên trong hậu đất, tui lẩm bẩm như vậy rồi bỏ vô nhà. Mới bưng chén trà lên hớp một ngụm, thì thằng Sáu hào hển chạy qua kêu :

    - Bác Ba ơi ! Ai đốt cháy Lung Tràm, rùa qua hậu đất bác lểnh nghểnh. Hai bác cháu mình ra ví bắt ít con, chiều rang muối nhậu lai rai chơi.

             Nghe nói nhậu rùa rang muối, tui chép nước miếng, lật đật với cái bao bố rồi dông theo thằng Sáu liền. Hai bác cháu tui vừa ra khỏi mé vườn thì thấy từ phía Lung Tràm rùa bò qua thật nhanh. Chúng còn ở ngoài kia, nhưng dường như thấy tụi tui nên nghểnh cổ nhìn. Đi tới chút nữa, bỗng bầy rùa ấy chụm đầu ngay vào chúng tui mà khẹt lửa. Liền đó, mấy trái đạn ĐK.57 nổ ầm ầm trên đầu. Hai bác cháu tui phóng xuống mương, bươn chạy một bữa muốn phờ râu. Biết sao không ? Xe lội nước chớ rùa gì.

    Sau đó không lâu, cũng thấy lửa cháy ven lung như vậy, cũng thằng Sáu hào hển qua, kêu :

    - Bác Ba ơi ! Xe lội nước đốt sậy, càn qua tới hậu đất rồi kìa. Chạy trốn mau đi !

              Hai bác cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà, thì thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang luối. Nó bảo là hồi trưa nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nó còn nói có mấy con bò qua hậu đất tui, bắt không được. Nghe nói mà tui tiếc hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước, bỏ chạy trốn. Thiệt tức !

             Lại một lần sau nữa thấy lửa cháy giang sậy, cũng thằng Sáu chạy qua kêu :

    - Bác Ba ơi ! Lần này đón bắt rùa thiệt đó !

              Hai bác cháu tui cảnh giác, đứng núp trong bờ chuối nhìn ra. Tui thấy từ xa những chấm đen đang động đậy, nhích dần về phía mình. Thằng Sáu dợm chạy ra bắt.
Tui nắm tay nó, kéo lại :

    - Chết mẹ ! Xe lội nước !

           Xe lội nước thiệt. Chúng căng thành hàng ngang chạy ngang qua. Hai bác cháu tui chạy một mạch qua Lung Bùn, chém vè vô đám nga. Hai đứa chia nhau hai chỗ. Trốn trong con lung này đầy sình lầy, xe lội nước khó lòng mà chạy vô được.

              Tui nằm chờ co ro trong một lùm nga, nghe tiếng xe chạy rù rù êm tai làm cơn buồn ngủ kéo ghị sụp mí mắt xuống. Trong mơ mơ màng màng, tui nghe xa xa có tiếng lửa cháy, sậy nổ rốp rốp, gần gần có tiếng rùa bò qua sột soạt.

    Trước mắt tui, chập chờn hình ảnh những còn rùa vừa bò ngang vừa ngóng cổ lên như nòng súng ĐK trên mui xe lội nước. Lại tốp rùa phía sau bò tới nữa, tới nữa. Rùa nhả lửa, khạc đạn ầm ầm, ì ì... Có một con bò đến bên chân tui, thở phì phò, phì phò... Tui cứ nằm im, nói thầm trong bụng : Kệ cha mày ! Đừng gạt tao chạy ra bắt để gặp xe lội nước nữa. Nhưng con rùa đó thật kỳ cục, cứ nhắm chân tui mà bò lên, mà thở phì phò nóng hổi. Hơi thở của nó hôi xăng tanh rình. Người ta nói không thèm bắt nó rồi mà cứ ủi ủi vào chân mãi. Tui nổi xung, tống cho nó một đạp thật mạnh. Con rùa văng bổng lên khỏi đọt nga, rớt ngửa ra giữa lung bùn một cái ùm, nước văng trắng dã. Tui giựt mình tỉnh dậy, vì bàn chân tui đau điếng. Đang ngồi xoa bóp, bỗng nghe ai đó bò xột xọt lại gần. Thằng Sáu ! Nó đến sát bên tai tui, thì thào :

             - Chết rồi bác Ba ơi ! Tính sao bây giờ ? Có một chiếc xe lội nước đang bò vô chỗ này, bỗng nhiên nó văng bắn, lộn nhào ra giữa lung. Nó còn nằm ngửa bơi bơi như hai sợi dây xích lên trời như hai con cuốn chiếu lật ngược vậy đó.

11 – MÊ ĐÁ GÀ

    Hồi đó, ở vùng Lung Tràm này, tao luôn nổi tiếng chúa trùm trường gà. Đi tới đâu, thấy ai có nuôi gà nòi rặt là tao tìm cách mua hết cho bằng được, có khi còn khăn gói chèo chống nhiều ngày đường qua tận bên kinh Thứ Mười Một - Rạch Giá để lựa gà. Nhà tao lúc đó mấy trăm bội với hàng mấy chục con gà tử mị. Đám đệ tử theo học nghề tao cũng không ít. Nội vườn trồng ngải để “tẩm quất” cho gà thôi cũng đã hơn chục công, mỗi ngày phải đào cả chục gánh vô gọt vỏ, mài mịn, ngâm với rượu để tắm cho gà. Gần Tết, dân miệt Sài Gòn, Long An, Châu Đốc... kéo vô mở trường gà đông hơn đi trẩy hội Nghinh Ông.

Tao phải cất một hơi hơn mấy chục lán trại làm nhà trọ, rồi chỉ cách cho cả xóm cùng làm. Tiền vô như nước, đếm tê cả các đầu ngón tay. Hồi đó, tao giàu có tiếng, thế mà bây giờ... bây thấy đó, tao... nghèo có kém ai đâu. Đầu đuôi gốc ngọn cũng vì mấy con gà, không ở tù đã là may mắn lắm rồi.

    “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn” mà. Tao chỉ là dân trùm miệt giồng, còn họ trùm miệt chợ thì chuyện sạt nghiệp là thường. Thật ra, tao cũng có những chiêu thật hiểm ác, vào trận, nếu gà của đối phương bị gà tao đá trầy sơ thì chỉ trong vòng chưa tàn cây nhang đã ngã ra giãy đành đạch, chết tại chỗ.

    - Gà bác thuộc giống gà gì mà ghê vậy ?

    - Cũng là gà nòi thường thôi, có điều trước khi cáp độ, tao lấy nọc rắn hổ thoa vô cựa gà.

             Bởi vậy, tao bị tay thầy gà miệt Sài Gòn xuống cáp độ lớn tới mức phải bán hết mấy chục mẫu ruộng và trên chục công vườn, cầm luôn hai bầy trâu để ăn thua. Lần ấy, gà hai bên đá đến nước thứ ba rồi mà gà tao vẫn chưa hạ được gà người ta. Đã vậy, gà người ta càng đá càng hăng, còn gà của mình càng lúc càng xuống sức. Hai bên còn đang giằng co thì du kích xã xuống tới. Bị bao vây bất ngờ, tụi tao bỏ của chạy lấy người.

    - Trời ! Tiếc quá nội hén. - Thằng Đậu chặc lưỡi tiếc rẻ.

    - Tiếc gì chứ. Tối ngày cứ ba cái cờ bạc, số đề, đá gà... thì không bao giờ khá được đâu.

12 – NAI CỘ LÚA

           Nai là loại quý hiếm nhưng nói thiệt, nai nhiều lúc nó phá quá mình cũng đổ quạu. Ai đời, mạ non có bao nhiêu nó cũng kéo tới ních sạch bách, cứ như vậy hoài thử hỏi mùa tới lấy lúa đâu mà cấy.

           Vậy mà bữa nọ, tao đi rừng thấy một con nai mẹ bị trăn quấn chết, còn con nai con đang rúc đầu vô bú mẹ, bỏ không nỡ nên tao bắt nó đem về nuôi, lớn bộn.

             Năm đó trúng mùa, trâu thì rất hiếm, kinh rạch thì cạn queo làm sao lôi lúa cho xiết. Không biết tính cách nào, tao với bả nằm đêm suy nghĩ. Cuối cùng, tao nghĩ ra một kế, sáng ra tao đốn tre làm cộ. Xong đâu đấy, tao bắt con nai tơ của nhà tao thay trâu kéo cộ. Kéo đâu được mấy ngày đêm, coi bộ nó ngán hay sao, nó bỏ vô rừng kêu một bầy nai độ chừng trên dưới vài trăm con về phụ nó. Lúc ấy, có người kéo lại không có cộ, chợt thấy bộ gạc trên đầu nó, tao liền lấy bó lúa máng lên. Mỗi con có thể mang khoảng mười bó. Cộ lúa sau cùng về tới nhà cũng vừa lúc đón giao thừa. Thiệt là may, nếu không có bầy nai, tao với bác Ba gái mày có nước khóc... tiếng Mọi. Đúng là cứu vật, vật trả ơn.

13 – GÁC KÈO MẬT ONG

           Mùa hạn năm đó, tui quảy gùi, vác mác, lội rừng ăn mật ong. Đi từ suốt sáng cho tới trưa mà vẫn chưa cạo được ổ nào. Ong đóng kèo bạ thì chẳng có bao nhiêu, còn đóng kèo gác toàn là loại mới ốp lưỡi mèo, mật mới tráng ống. Buồn tình, tui mới lột gùi, để mác với dao tre một bên, lấy tấm vải nhựa ra trải dựa gốc tràm, nằm ngủ một giấc. Tui nằm tréo ngoảy, chân này gác xiên lên chân kia. Lúc nghe nắng nóng nóng bên mang tai, tui mới giật mình thức dậy.

    Cũng còn nằm nguyên tư thế cũ, tui móc gói thuốc ra vấn hút. Đang lúc nhả khói, phun mây phì phèo, tui bỗng nghe ở đâu đây có tiếng bầy ong mật vỗ cánh rì rào. Tui ngó dáo dác, định ngồi dậy đi tìm. Nhưng chợt nhìn xuống cái chân tréo ngoảy của mình thì... trời đất ! Ổ ong đang đóng dưới bụng ống chân tui. Thấy mình ngủ nằm tréo ngoảy, nó tưởng đâu cái kèo mà áp lại đóng.

 

   “Mày đem nạp mạng, sẵn đây tao cạo luôn”. Nghĩ vậy, nên tui hút mạnh mấy hơi thuốc, phà khói vào tổ ong. Bị khói thuốc Gò Vấp cay mắt, bầy ong bỏ ổ, bay tán loạn. Tui với lấy cây dao tre để bên cạnh, xắn lấy tàn ong bỏ đi, tấm tàn lớn bằng cái sàng vậy. Còn lại khúc mức, tui xeo thêm mấy nhát dao tre nữa, nó rớt xuống tấm vải nhựa cái đụi, một khối mật vàng óng bằng trái dừa khô nằm trưu trứu trên tấm vải nhựa.

14 – CHÀI CÁ CHỐT

Bữa nọ, bác Ba gái bây bả thèm mắm tép, vì thế bả kêu tao đi chiều về mần ít nắm, sẵn gởi cho Hai Lúa một mớ nhậu chơi.
Làm theo lời bả, hai ông cháu tao chống xuồng ra sông cái, rà tới rà lui một hồi, tao tấp xuồng vô bờ rồi quăng chài, cái chài tròn lủm thiệt là vừa mắt.

    Quăng xong, ông cháu tao ngồi chờ, nhưng lạ quá, cái chài không muốn chìm.

    Ngồi chờ đến tàn điếu thuốc, mà cái chài cứ nhồi lên, chìm xuống như cặp bè gặp sóng không bằng. Tức mình nên tao biểu thằng Đậu phóng xuống mò thử xem sao. Loáng sau, thằng Đậu đã trồi lên, nó thở khì :

    - Chài không mắc gốc đâu nội ơi. Tại nó chụp đúng bầy cá đông nghẹt nên nó không chìm được đó thôi.

 

Kiếm tép lại gặp cá, nhưng bỏ cá thì uổng, ông cháu tao đành hì hục kéo cái chài đầy cá lên xuồng, vừa vặn nước liếm be.
Đẩy được chiếc xuồng về đến xóm thì đã quá trưa, tao quyết định đưa chài lẫn cá lên giàn phơi luôn, chớ cá chốt gai ngạnh thấy phát ớn, ai đâu mà gỡ cho nổi.

    Phơi luôn tới ngày hôm sau, ông cháu tao lấy chài xuống gỡ được hơn chục thúng cá khô. Tổng cộng là mười hai ngàn lẻ hai con cả thảy. Bác Ba gái bây kêu thằng Đậu cuốn bồ, vô cá để làm phân rải cho mùa dưa hấu tới.

    - Nè, bác Ba ! Hổng lẽ bác đếm từng con cá chốt sao mà bác biết nó có mười hai ngàn lẻ hai con ?

    - Trời đất ! Thứ đồ cá làm phân, ai hơi sức đâu để đếm. Tại vì cái chài của tao có mười hai ngàn lẻ hai lỗ, mỗi lỗ dính một con, vậy có phải mười hai ngàn lẻ hai con không hả ?

15 – SỌ ĐẦU CÁ TRÊ

             Ông Tư khẽ đưa tay vuốt chòm râu bạc đang bung trắng trước ngực. Ông say sưa kể tiếp chuyện cái “sọ đầu cá trê” của bác Ba Phi cho con cháu nghe. Cái búi tóc sau ót của ông từng lúc cứ như nhúc nhích, nhúc nhích :

    - Nè... tụi con ngồi yên, đừng chồm tới nữa, để ông kể nữa cho nghe. Nhà bác Ba hồi đó có nuôi bầy heo nái... Ờ... ờ... chuyện này mấy con nghe chưa? Số là hôm nọ, tới ngày bán đàn heo rồi, mà bầy heo đi đâu chẳng thấy héo lánh về. Bà con lối xóm tới bắt heo con, đứng chờ đông nghẹt, chật cả nhà. Sốt ruột quá, bác Ba lội đi lùng kiếm khắp vườn mà chẳng thấy.

    Chắc là bị cọp ăn hết rồi ! Bác ba thất vọng than thở, vừa lê từng bước nặng nhọc trở về nhà.

    Vừa tới sàn trước, bác giật mình thấy vật gì cứ làm nhúc nhích, nhúc nhích cái sọ đầu con cá trê trông hình như cái sọ đầu muốn “bò” đi mà “bò” không được. Trời đất! Lại quỷ ma ám ảnh nữa rồi, hay là...

    Bà con đứng chờ bắt heo trong nhà nghe tiếng bác Ba kêu la, liền chạy ra. Một tốp đứng cầm cây, dao mác vây quanh chực sẵn. Số bà con còn lại thì ráp nhau cùng bác khiêng lật ngược sọ đầu cá trê lên. Hổng ngờ bầy heo con từ trong vù chạy ra. Con heo nái mẹ vú lòng thòng cũng chạy vụt ra theo.

    Mọi người mới bật ngửa, cười ồ. Thì ra lúc nãy, heo nái mẹ dẫn đàn heo đến sân lăn ủi tìm cái ăn, nhưng nó ủi phá thế nào làm sọ đầu cá trê của bác Ba lật úp lại nhốt gọn lỏn bầy heo, cả mẹ lẫn con vào bên trong.

    Kể tới đây, ông Tư đưa tay lên nắn nắn sửa lại cái búi tóc sau ót. Ông cười hề hề :

    - Cái sọ đầu con cá trê của bác Ba thời đó bự cỡ vậy lận đó, các con!

16 – KHỈ ĐI PHÁT CỎ RUỘNG

    Hồi mới khai phá vùng này, khỉ nhiều vô kể. Mỗi bầy đông tới hàng trăm con, con lớn bằng đứa trẻ lên bốn, lên năm. Chúng phá ác lắm. Tui trồng được thứ gì là nó vặt trọi thứ đó. Năm nọ, tui trồng rẫy khoai rộng lắm. Tới chừng khoai có củ, khỉ móc ăn sạch sành sanh. Tức mình quá, tui tìm kế trị chúng một trận cho tởn.

 

    Suy nghĩ hoài mà chưa có cách, giống khỉ khôn có hạng, đâu phải dễ dàng gì gạt được nó. Một hôm, nghĩ ra một kế. Cứ mỗi lần đi làm ruộng là nó bu lại ngồi trên đọt tràm dòm ngó. Tui chợt hiểu: À ! Đám này là chúa bắt chước. Vậy là tới bờ, tui kéo xuồng lên, múc nước trong xuồng uống rồi rửa mặt. Nước trong xuồng tui pha mật ong ngọt lịm. Khi về, tui lội bộ, giả bộ bỏ quên xuồng. Vắng người, bọn khỉ xuống vừa uống vừa tắm đã đời

. Cầm đầu bầy có một con khỉ đột, đứng tới ngực. Nó khôn lắm, mấy lần đầu, nó đâu có chịu xuống. Thấy bầy khỉ con ăn, tắm đã đời, nó bèn mon men xuống làm thử; thấy êm re hổng có sao hết, vậy là nó vô khâu.

 

Tui mới làm cái bẫy trong xuồng, con nào nặng tới năm mươi ký mới bị sập. Cho nên, mấy con khỉ con bò qua đâu có sao, còn nó nhào xuống thì bẫy sập. Bắt được nó về, tui đâu cho ở không, tui bắt nó đi phát ruộng. Cũng phảng, cù nèo đàng hoàng. Nó phát giỏi lắm, tui rồi một công thì nó cũng xong một công.

    - Vậy, đám khỉ con đâu hết, bác Ba ? – Có người hỏi.

    - Ờ, thấy chúa tể bị lao xiềng, lại bắt làm ruộng, lũ nhỏ tởn ông tởn cha nó, chừng nào mới dám tới, dám quậy nữa. Nói cho ngay, hồi đó khỉ chỉ có bắt chước thôi, chớ tay chân đâu có khều móc, chụp giật như bây giờ. Tụi bây biết tại sao không ?

    Thấy lớp trẻ ngơ ngác, bác Ba Phi cười :

    - Thì, tại nó tắm ba cái mật ong mà tao gạt chúng đó. Lâu ngày dài tháng, mật dính vô lông đi tới đâu kiến bu theo tới đó, ngồi đâu có yên, chúng quào móc riết thành tật, tới bây giờ làm sao sửa được.

17 – PHÁO LUNG TRÀM

    Lần này, tao lại thu được một đầu đạn to tướng, thay vì nộp cho công xưởng như mọi khi thì ông cháu tao lại hì hục kéo tuốt về nhà để ngoài vườn.

    Thấy thằng Đậu có vẻ thắc mắc, tao giải thích :

    - Ậy ! Là vậy con ạ. Nội sẽ sử dụng đầu đạn này đánh tên quận trưởng vùng này một trận tan tác luôn.

    - Đánh ! Đánh bằng cách nào ? Mình đâu có pháo để bắn, mà đầu đạn thì đã mất ngòi nổ rồi.

  • Vậy mà, nội làm được đó nghen. Con cứ chờ đi.

 

   Sau đó, tao đi vô nhà lấy thùng đồ nghề ra lui cui làm cả buổi, cuối cùng thì tao cũng đã làm xong một kíp nổ kiểu đầu gạt, thứ kíp nổ cải biên này chỉ yêu cầu có độ giật là trật mấu nổ ngay.

    Tao lại lấy thêm một sợi dây cáp thật dài, xỏ vào cái khoen làm sẵn trong đầu đạn rồi tìm một cây tràm thật cao leo lên cột một đầu dây trên đó.

 

  Đền chiều tối, tao cầm đầu dây này, thằng Đậu cầm đầu dây kia xả ra. Cứ thế cả hai đi về phía sau chi khu hơn năm cây số. Khi đã thấy ánh đèn sáng rực, ông cháu tao mới dừng lại. Đó chính là mục tiêu sẽ nhận trái pháo của tao, chỉ cần kéo sợi dây căng lên làm đường ray cho quả pháo thì nó sẽ “xung trận” ngay.

    Hiểu ý tao, thằng Đậu liền phụ tao.

    Hì hục mãi, ông cháu tao mới kéo căng sợi cây cáp lên được, sợi dây cột trên đọt tràm cao chạy kéo xuống thành độ dốc vừa đủ.

    Đâu đó xong xuôi, tao ra lệnh thằng Đậu phát pháo, bằng cách giật mạnh sợi dây cáp, từ trên đọt tràm cao vút, đầu đạn theo dây tuột xuống càng lúc càng nhanh hơn. Sau cùng có trớn, đầu đạn phóng nhanh như gió, vùn vụt về phía dinh tên quận trưởng. Chờ đến khi đầu đạn tuột đến ngọn đèn, tao liền buông sợi dây, cho quả pháo rơi ngay xuống.

    “Rầm”. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, kèm theo một vùng lửa sáng rực cả góc trời khói đen mù mịt.

Hai ông cháu tao từ đằng xa cũng bị hất vô bụi, lồm cồm bò dậy, hai ông cháu giông tuốt về nhà đánh một giấc tới sáng.

18 – NỀN NHÀ QUAY

    Không thể rải giống trên cạn được, tao bèn nghĩ ra cách đắp bờ bao chứa nước để gieo ngầm mới xong.

    Thế là, hai ông cháu tao bắt đầu làm ngay. Hôm sau, trời vừa tờ mờ sáng, tao và thằng Đậu vác cây cối và cuốc ra đồng, cây để cất chòi giữ mạ, cuốc để dùng vào việc đắp bờ bao phòng trời mưa to giồng bị trôi đi, đắp xong thì trời đã tối mịt.

    Đêm hôm đó, quả đúng như sự lo lắng của tao, một trận mưa kinh hồn đổ xuống. Hai ông cháu tao lần mò ra xem đám mạ thế nào, bờ bao có bị bể không, nào dè, đám mạ đã biến mất cùng khu bờ bao. Chừng xem kỹ lại thì giồng bờ bao lại nằm chình ình ở sau chòi.

    Và cứ thế, đám mạ lúc thì ở trước nhà, lúc sau nhà, khiến hai ông cháu chẳng hiểu ra sao cả.

    - Hừm ! - Đổ quạu, tạo chửi đổng - Cả trời đất cũng giỡn mặt với Ba Phi này sao chứ ?

    Chợt, thằng Đậu chỉ tay xuống gốc chòi :

    - Nội ! Xem kìa !

 

   A ! Thì ra cái chòi nó quay chứ không phải đám mạ và mặt trời quay. Thấy lạ, hai ông cháu tao nhảy ra khỏi chòi. Xem xét một hồi lâu, tao vỗ tay cười ngất :

    - Đậu ơi ! Nội hiểu rồi. Té ra, hai ông cháu mình lụp chụp nên chẳng coi xét kỹ đã cất cái chòi trên lưng con càng đước khổng lồ mà cứ tưởng là mô đất cao.

    Hai ông cháu tao khoái quá, nhảy lên chòi điều khiển con càng đước bò thẳng về nhà.

19 – GIỮ MẠ

           Lại tới mùa gieo mạ, nông dân Lung Tràm lại lo lắng khôn nguôi vì bọn chim chuột phá đám mạ chịu đời không thấu. Nói tới chim chuột thì tao còn lạ gì, hồi nẳm, tao đã bị chúng chơi cho mấy vố xấc bấc xang bang cả lên.

    Năm nay có khác, tao đã nghĩ ra một cách nắm chắc phần thắng:

    - Nè, dượng Ba ! – Hai Lúa vỗ vai tao kỳ kèo - Phải chi cho mọi người biết là làm sao đám mạ của dượng lại không bị chim chuột phá đi chớ !

    Thấy chẳng cần phải giữ bí mật, tao ôn tồn kể ngay :

    - Khi tui hứa với mọi người là đảm bảo đủ mạ cho hai người cấy thì tui cũng ngâm giống như cô bác lối xóm đấy thôi, nhưng có điều lúc sạ mạ, tui có phần không giống mọi khi, như cô bác gieo mạ ban ngày thì tui làm ban đêm. Gieo về đêm thì tránh được lũ chim. Nó đã đi ngủ cả thì làm sao ăn giống của mình được.

    - Thế còn bầy le le ? – Hai Lúa hỏi tới.

    - Có khó gì đâu. – Tao đủng đỉnh – Tui bỏ tiền ra mua mấy thiên vọp, loại vọp nhứt, mỗi con trên ký.

    Ban ngày, tui biểu bầy trẻ đổ ra sân phơi cho nó nóng vỏ, tối đổ xuống xuồng chở ra đám mạ rải đều khắp nơi. Vọp bị phơi nắng cả ngày, gặp nước mát há miệng ra uống. Khi đó thì đám le le thò đầu xuống mò lúa giống trúng miệng vọp bị kẹp lại, hoảng hồn bay lên lôi theo cả con vọp, bay chẳng bao xa lại rớt lạch bạch xuống đất. Lúc đó, tui tha hồ mà chống xuồng đi vớt le le mang ra chợ

20 – TRĂN ĐÁNH GIẶC

    Lần đó địch mở chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”, bên ta rút quân sâu vô rừng ém và lên sa bàn tổ chức phản công. Đang tranh luận gay cấn thì được tin tình báo vừa bắt được một “do thám”.

    Ra gã do thám ấy là... bác Ba Phi tao đây.

    Bên ngoài xăm xăm bước vô, bất ngờ tao quay lại. Nhận ra tao, mấy đứa đó giật mình la lớn :

    - Trời ! Bác Ba ! Bác đi đâu vậy ? Bộ bác không biết bọn địch đang đưa mấy tiểu đoàn đi càn sao ? Kỳ này, bọn chúng nhất định nhổ cỏ U Minh, bác đi vậy lỡ bị địch phục kích thì sao ?

    Tao cười hề hề, nói :

    - Tao vô đây báo cho tụi bây một tin mừng.

    Thấy mấy đứa cứ nhấp nhổm, mặt lộ vẻ sốt ruột, tao bèn vòng vo tam quốc.

    ... Hồi nẳm tao đi rừng, gặp ổ trăn đang ấp. Ấp xong, trăn con trăn mẹ kéo đi ráo, chỉ còn sót lại một trứng. Tưởng lép, tao mang về định luộc nhậu. Hổng dè chưa kịp luộc nhậu, trứng lại nở ra con trăn, một con trăn đẹt ngắt. Thằng cháu nội tao cưng lắm, nó bắt chuột cho ăn đã đời. Bữa nọ, do no nên trăn ăn không hết chuột. Đêm đó, chuột khoét chuồng chun ra, trăn theo đó bò đi mất. Kiếm giáp vòng không có, thằng cháu tao nó khóc đến bỏ ăn, sưng cả mắt luôn. Thấy vậy, tao định tìm bắt cho nó con trăn khác, nào ngờ con trăn trở về. Nuôi thêm hai năm, con trăn lớn bộn. Thằng cháu tao đã gặp may, vì trăn là trăn cái nên một năm, vào lối rằm tháng mười âm lịch, mùa trăn hội là trăn đực từ rừng U Minh bò về. Ôi thôi, không đếm xuể. Thằng cháu tao chỉ việc bắt trăn bỏ vào bao chở ra chợ bán, nó giàu lên cũng nhờ con trăn này.

    - Bác Ba à ! Bác kể dông dài làm chi, giặc đánh rần rần, tụi cháu lo muốn hụt hơi luôn đây này, còn tâm trí đâu mà nghe bác kể chuyện.

    Tao làm mặt giận :

    - Hổng nghe thì thôi, nhưng con trăn của tao nó có liên quan đến trận càn này. Tao vô đây báo cho tụi bây ra ngoải chở súng về, nhiều lắm đa.

    - Bác ba giỡn hoài.

    - Vụ này, tao nói thiệt đó. Số là hồi hôm này, khi tụi lính kéo vô tới nơi rủ tao nhậu tới quắc cần câu. Xong, cả đám lăn ra ngủ như chết. Hừng đông, tao tính tới sở chỉ huy của nó dò la tin tức. Ai dè tới nơi không thấy thằng nào ráo, có điều lạ là súng ống còn nguyên ra đó, tao gom lại mấy đống luôn. Đi loanh quanh một hồi, tao thấy con trăn nằm chình ình ra đó. Thấy miệng nó còn ló chiếc giày bốt, chừng đó tao mới hiểu hai tiểu đoàn lính đi càn đã làm mồi cho trăn. Thôi, tụi bây bảo anh em chống xuồng ra chở vũ khí mang về mà xài. Đứa nào không tin thì cứ hỏi bả thì rõ.

21 – THỔI TÙ VÀ GỌI BA KHÍA

    Ba khía làm mắm, được chế biến với đủ liều lượng, gia vị, rau răm, quế, khế, thơm, chuối chát ăn với cơm nguội. Số dách !

    Ở U Minh, ba khía có rất nhiều, tới mùa ba khía rộ, dân trong vùng và các nơi đổ về soi ba khía để làm mắm, nhưng bắt ba khía bằng cách đi soi, thộp cổ từng con bỏ vào thùng thiếc để đem về làm ra món mắm đặc sản mà đã có đông đảo dân mình ghiền, là xưa lơ xưa lắc rồi. Năm nay, tao có cách khác rồi vừa nhàn hạ, vừa nhiều ba khía và đảm bảo làm mắm ngay.

    Nghe tao tuyên bố thế, chẳng mấy ai tin, tao đành phải “nói có sách, mách có chứng”.

    Trời chập tối, tao đã kêu sấp nhỏ chuẩn bị bảy chiếc xuồng.

    Thằng Đậu ngạc nhiên :

    - Mình chỉ có ba ông cháu, một chiếc xuồng đã đủ, ông nội kêu chuẩn bị tới bảy chiếc để làm gì vậy ?

    Tao cười tỉnh rụi :

    - “Thiên cơ bất khả lậu”. Cứ làm theo ông nội chỉ, đâu sẽ vào đấy.

    Tao còn bảo chúng nó đổ nước lưng lưng hai chiếc xuồng, năm chiếc xuồng còn lại đổ muối hột, muối dự trữ để sẵn trong thúng.

    Chờ cho đỏ đèn, mấy ông cháu tao ì ạch đẩy hết xuồng ra vàm để hứng luồng ba khía từ trong rừng U Minh bò ra. Tao sắp xếp xuồng thứ tự đâu đó cả : Hai chiếc chứa nước đậu phía trước, kế tới năm chiếc xuồng muối.

    Tao dặn thêm thằng Đậu :

    - Có lớp ba khía nào bò lên thì xếp một lớp muối hột lên trên, lớp trên cùng gài bằng sóng lá dừa cho chặt, sau phủ lớp lá chuối là xong.

    Thằng Đậu đốt đèn cho ba khía thấy đường bò về, còn con Mè bắc cầu cho ba khía leo lên xuồng.

    Đèn được đốt lên, mấy ông cháu tao bò lên gò đất ngồi chờ. Hút tàn điếu thuốc rê, tao liền rút trong túi áo bà ba ra cái sừng trâu bóng lộn đưa lên miệng.

    Tu và... tu và... tu và...

    Thằng Đậu thắc mắc

   - Ông nội thổi sừng trâu chi vậy ?

    Tao rung đùi, trả lời :

    - Gọi ba khía chứ chi.

    Thằng Đậu cười ré lên :

    - Úy trời ! Nào giờ mới biết cái vụ này. Ngộ quá ta !

    Thổi sừng trâu một chập thì ngưng, tao lại vấn thuốc, chưa xong đã nghe tiếng thằng Đậu la :

    - Trời ơi ! Ba khía về, nó leo lên xuồng nước. Ôi ! hằng hà sa số tận luôn.

    Y như vậy, từng đàn ba khía từ dưới rạch theo cầu và bò lên xuồng thứ nhất, sau đó bì bõm qua xuồng nước thứ hai, rồi từ xuồng nước thứ hai chúng bò sang xuồng chứa muối hột. Nghe thấy hơi muối, chúng liền nằm im, lớp này chồng lên lớp kia rất thứ tự, lớp lang.

    - Bây thấy chưa ?

    Thấy chúng nó không hiểu, tao giải thích :

    - Tao đã tính kỹ, ba khía bò lên xuồng nước đầu tiên là để rửa càng, rửa ngoe cho sạch bùn, tiếp tục bò sang xuồng thứ hai cho sạch rong rêu, rồi cứ thế bò sang xuồng chứa muối để tự nguyện... làm mắm.

    Trăng lên chưa tới đỉnh sào thì mấy ông cháu tao đã bắt đầy bảy xuồng ba khía, nước tát bỏ đi, để muối dự trữ vào.

    Trên đường về, con Mè hỏi :

    - Bộ... ba khía khoái nghe tù và lắm hả nội ?

    Tao cười khà :

    - Tao thổi tù và cho vui thôi. Chủ yếu là ba khía nó đánh hơi nghe mùi muối, hiểu chưa. Hổng tin, cứ hỏi bả thử coi.

22 – BÀI THUỐC TRỊ RẮN

    Hồi nẳm, xứ này có ông thầy bắt rắn hổ nổi danh. Thấy nghề bắt rắn của ổng kiếm ăn được lại thong dong nên tao quyết định đi theo học nghề. Nhưng nài nỉ cỡ nào ổng cũng không chịu dạy, tao xách nốp sang ngủ luôn nhà ổng, chờ khuya theo ổng, nhưng khi thức dậy thì thấy ổng biến mất.

    Túng cùng, tao nghĩ ra một kế, chống xuồng qua, cột dây mũi sau lái xuồng của ổng, lỡ có ngủ quên thì không sao, nhưng khuya chống xuồng đi một lúc, phát hiện ra xuồng tao, ổng nhẹ nhàng mở dây bỏ tao giữa đường.

    Có lẽ ổng thấy tao nhất quyết học nghề nên cuối cùng ổng cho theo. Theo một thời gian ngắn thì tao học được cách tìm hang cụt có rắn, rồi lấy tay vuốt miệng hang nhiều lần, sau đó vỗ vỗ lên miệng hang thì rắn sẽ tự động bò ra, ổng chỉ cần lấy cây có nạng chận đầu con rắn rồi nắm đầu nó, xong dùng mác cạo hai cái răng có chứa nọc độc rồi thả vô rọng, tới khi rọng quảy nặng thì về.

    Học thêm một thời gian nữa, tao đã rút ra được kinh nghiệm : Rắn không biết nghe, nó chỉ phán đoán con mồi hay đối thủ qua độ rung mặt đất và nhận biết vật cản qua thăm dò nhờ cái lưỡi. Mình bị rắn cắn là do đạp phải nó hay làm động tác chống cự nó mà thôi.

    Sau đó, tao đi bắt rắn một mình, khi tìm thấy hang rắn, tao vội lấy thuốc ra vấn hút để nhả khói phun xuống hang coi có bao nhiêu ngách để ém chặt, chỉ chừa một cửa chính cho rắn chun lên như ông thầy từng làm. Chẳng dè, gặp hang có quá nhiều ngách, bối rối tao nằm dài ra lấy hai tay, hai chân bịt miệng hang lại hổng cho rắn chun lên. Con rắn nghe động, tưởng có mồi, nó bò lên chun vô ống quần tao, tao ráng trân mình mà chịu nhột. Con rắn chun lên tới lưng quần, hết đường, nó quây đầu trở xuống. Chờ nó bò ra xa, tao phóng cái rột định tháo chạy thoát thân, nào ngờ con rắn lẹ kinh hồn, nó rượt theo táp nghe cái “phập”, tao lẹ làng lăn ba vòng, nhảy ba bước, quơ mấy nắm cỏ nhai nuốt nước, còn xác thì đắp lên chỗ rắn cắn, đây là bài thuốc trị rắn cắn thuộc hàng độc chiêu của Ba Phi, nhưng phải là rắn cắn hụt đấy nhé.

23 – KHỈ NHẬN GIẤY KHEN

    Hồi xửa hồi xưa, khi vùng đất U Minh mới được khai phá, các thức đặc sản ở đây rất nhiều. Trong một lần, tao (bác Ba Phi) đi bắt vọp về làm món ăn cho đỡ ngán, đang nghĩ tới chuyện bắt vọp thì dưới bờ kinh một bầy khỉ hàng ngàn con chuyền trên vạt mắm rần như có giông tới.

    Thấy bầy khỉ đi qua đầu, tao nép mình dưới bụi cây đứng coi. Tới bìa rừng, bầy khỉ tuột xuống đất. Con khỉ cầm bầy bẻ một nhánh đước rồi bỏ xuống bãi, thấy con vọp nào hả miệng thở thì lấy ngay nhánh đước chêm ngay miệng để con vọp không kịp hớp miệng lại được rồi thì thò tay vào móc thịt vọp ăn ngon lành.

 

 Thấy con khỉ cầm bầy khôn giàn mây, tao liền nảy ngay ý định bắt nó về nuôi đặng sai vặt.

    Con khỉ càng lớn bộn, càng khôn lại biết nghe lời. Nó biết phụ pha trò, bưng cơm cho tao ăn, nó còn phụ giữ trâu với thằng cháu của tao.

    Trong một lần giặc càn, máy bay bỏ bom tùm lum, con khỉ sợ quá bỏ đi mất tiêu, đến bốn ngày sau mới về.

    Khoảng đâu chừng tháng sau, tao được thư của mấy thằng tiểu đoàn U Minh mời vô liên hoan mừng thắng trận, với lời phụ chú: “Nhớ dẫn theo con khỉ”.

    Tao nghĩ nát óc cũng không hiểu căn nguyên do đâu mà đi dự tiệc còn dặn mang theo khỉ, đành cứ dẫn nó theo.
Ngồi chưa nóng ghế, cậu cán bộ phụ trách thi đua đã tìm tao, hỏi họ tên của con khỉ để ghi vào giấy khen :

    - Úy trời đất ! Thiệt hôn mày ?

    - Thiệt chớ bộ giỡn sao bác. - Cậu cán bộ phụ trách trả lời ngon ơ.

    Sau liên hoan, tao tìm đến tiểu đoàn trưởng hỏi cho rõ đầu đuôi. Thì ra, con khỉ của tao có công giúp bộ đội bắt tù binh.

    Số là vầy...

    Sau nhiều lần giặc đổ quân càn bị thua xiểng niểng, tụi lính ớn ợn không dám đi càn nữa mà chỉ dám cho máy bay oanh kích bậy bạ để gỡ ghẻ, nào ngờ bị tiểu đoàn cao xạ bắt trả rớt mấy chiếc, có thằng phi công nhảy ùm trốn trong rừng, dân quân, du kích tìm miết không gặp. Khi đó thằng phi công núp trong đám chòi, nó lấy đồ hộp khui ra ăn rồi khui bia lon ực ngon lành.

    Nhằm bữa đó, con khỉ tao bỏ nhà đi, rình coi. Thấy đã quá, nên nó chờ thằng phi công say, ngủ quên, nó bò xuống kiếm thịt ăn và khui bia uống cho sướng. Chẳng dè thịt hộp, bia lon nó không lấy, lại vớ trái lựu đạn rồi đưa tay vô nhíp định rút. Bất ngờ thằng phi công tỉnh giấc, thấy đã rút chốt lựu đạn, nó hoảng hồn co giò chạy trối chết, nó mang tòn ten hộp thịt nên con khỉ tiếc rượt theo, chạy gần xế chiều thì lọt vô đúng ngay mũi lùng sục của tiểu đoàn. Thấy cảnh tượng như vậy thì ai nấy lăn ra cười. Cuối cùng thằng phi công bị bắt. Không uống được bia, con khỉ tức giận chọi lựu đạn xuống sình, chờ hoài không thấy nổ, nó mới biết lựu đạn lép.

24 – CẤT NHÀ LẦU

    Bác Ba gái bây bả bắt tao phải cất cái chòi cho bả có chỗ ăn ở rộng rãi, chớ ở chung một cái xuồng be có mui hoài nó tù túng, bực bội quá.

    Chiều ý bả, tao đốn nan cất một căn chòi lớn. Trong chòi có chỗ đặt bếp, chỗ ăn ngủ lại thêm một gian ví lẫm lúa nữa.

Nhưng tụi bây biết rồi đó, nọc tràm cất nhà ở giỏi lắm cũng vài ba năm, bởi vậy, tao mới nghĩ chuyện phải kiếm cách chi

 

 

cất nhà một lần mà có thể ở suốt đời,    thì mới tiết kiệm thời giờ đặng mà lo làm công việc khác kiếm sống.

 Suy tính xong, tao mới bỏ ra mấy ngày tìm chỗ đất phù hợp cho việc cất nhà mới. Tìm được, tao liền vác búa hạ tràm thành một lõm trống, chỉ chừa lại hai mươi cây tràm đúng y ngay vị trí cắm cột, sau đó lấy cưa cắt ngọn, đục mở miệng rồi luồn xiên xà lót sàn, nói tắt là tao chơi kiểu cất cột tràm sống ở khỏi phải thay cột. Ở đâu lối hai năm thì những cây cột tràm sống nhóng lên cao hơn hai thước, nên mỗi khi lên xuống phải bắc thang thật khó khăn. Thôi thì làm thêm một sàn ở phía dưới.

    Ở mấy chục năm thì cái chòi cứ cao vọt lên hoài, thành thử vài năm lại phải cất thêm cái sàn phía dưới, cái chòi cũ bây giờ trở thành nhà sàn cao sáu, bảy tầng. Sau năm Thìn bão lụt, cái chòi lầu của tao mỗi bận gió lùa, nó đưa đẩy như cái bàn bị long mộng. Đối đế, tao phải cắt gốc, nào ngờ đất sình lầy nên nó lún mau hết biết, chỉ trong một năm mà nó còn một tầng như bây giờ.

    Hổng tin, bây hỏi bả thì rõ.

25 – XẺ HEO RỪNG

    Hồi nẳm, dân U Minh trúng mùa bắp, nhà nào cũng có rẫy bắp mấy chục công.

    Trong mấy mùa liền, bà con dư ăn, dư để.

    Nhưng bận nọ, tao đi thăm rẫy. Từ đằng xa tao nghe tiếng gió ào ào, bắp gãy kêu rốp rốp, ngã la liệt. Tao lội tới, thì ra một bầy heo rừng ra ăn bắp của tao, chúng có cả hàng ngàn con chớ không ít, trong số đó có con heo cầm bầy coi bộ bặm trợn. Tao cầm cây tầm quơ, đuổi bầy heo tơ dông mất, chỉ còn mình con heo đực, “hắn” trụ lại nghinh chiến, tao còn thấy bộ nanh của nó nhọn hoắt.

    Thấy nó nghinh, tao hơi ớn, nhưng cũng trân mình xốc tới nạt đùa. Tưởng nó sợ, nào ngờ nó phóng ào tới đánh tao cái vù, tao thất kinh né khỏi rồi dông tuốt một mạch về nhà.

    Mấy hôm sau, tao mới hoàn hồn, và tao cũng đã nghĩ ra cách để trị nó. Trước hết, tao xách cây mác mài thật sắc bén để sẵn, sau đó trời vừa nhá nhem, tao lên đường ra ngoài chòi bắp. Chờ tới khuya, sương xuống nhiều để cho con heo đừng đánh hơi được tao, với lại trời khuya nó mê ăn không đề phòng.

 

 

 Quả đúng y như vậy, khi nó phát hiện ra tao thì cả đôi bên chỉ còn cách nhau hơn một tầm đất. Con heo đực lên một tiếng báo động cho bầy heo bỏ chạy vô rừng, còn nó đứng lại. Thấy tao như vậy, nó tưởng tao sợ, chồm tới định dùng cặp nanh đánh tao một lần nữa. Còn tao, lúc đó đang ngồi chồm hổm, hai vế kẹp chặt cán mác, chờ con heo xông tới, tao hét lớn :

    - Chết nè !

    Con heo thoáng giật mình vèo tới, tao ngã người ấn mạnh lưỡi mác ngay yết hầu con heo. Do trớn phóng tới quá mạnh, con heo bị lưỡi mác vạch một đường dài từ dạ dưới lên tận sống lưng thành hai phần đều ran. Cái đầu còn nguyên nên máng trên cổ tao, tao lấy hết sức đứng dậy đi về một mạch, về tới xóm thì gà cũng vừa gáy sáng.

26 – TỜ GIẤY KHEN

    Tờ giấy khen của huyện cấp cho tui về thành tích đóng góp vũ khí cho bộ đội công binh đánh tàu đó !

    Số là, ở đây tính theo đường chim bay ra cụm pháo Rạch Ráng độ bảy, tám cây số. Thường đêm, pháo nó thụt vô ầm ầm như giã gạo chày ba. Đạn pháo bay từng bầy, chẳng khác le le về ăn đám mạ. Người ở trong tầm pháo riết rồi cũng đâm ra chai lì. Nghe trái pháo nào đi kêu “hú hú” thì kệ thây nó, chỉ để ý những trái kêu “khè khè”, “khẹt khẹt” như tiếng vịt xiêm cồ gù thì mới chui vô hầm.

    Một bữa, cán bộ mình truyền rao cho đồng bào kiếm đầu đạn ô-buýt lép cho “công trường” tháo kíp làm chất nổ để đánh tàu. Khắp xóm xôn xao kéo nhau đi tìm kiếm, đào bới. Tui già cả rồi, yếu thì làm theo cách yếu. Đêm đó, tui nhóm một bếp lửa thật lớn giữa sân, quạt cháy bùng ngọn lên rồi xắn tay áo đứng chờ. Tụi pháo binh thấy vậy tưởng đâu mình làm mít tinh.

 

    Bọn pháo thủ bắt đầu khai hỏa. Ban đầu chúng thụt loại pháo 105 ly từng bầy bay tuốt ra sau ruộng nổ ùng ình. Một hồi lâu, bộ thấy đạn đó nhỏ, thụt lọt tay, chúng mới thay đạn cỡ 155 ly. Cỡ này là “vô khẩu” tui rồi đó ! Tui đứng nghiêng bề cạnh, nhìn từng bầy đạn pháo bay qua. Bất thần có hai đầu đạn quá thấp, mới vừa nghe “khẹt khẹt” là nó kẹp gọng kềm vào sườn tui. Không có cách nào tránh kịp, tui nhảy dựng lên, la lên một tiếng, cặp nách gọn hai đầu đạn pháo 155 ly bay bổng qua sông. Vì mất đà, tui bị té xuống bờ đìa một cái rất đau. Lúc đứng dậy phủi đít, tui thấy mắc cỡ quá trời. Thôi, sẵn trớn đó tui ôm lại đầu đạn pháo lên huyện nạp luôn. Vợ tui ở nhà tưởng đâu tui bị chết mất xác rồi, bả mần heo làm đám ma, khóc um sùm. Tui xách tờ giấy khen trên huyện về, thấy vậy, rửa chân trèo lên dứt một bụng cháo lòng heo, còn nhậu lai rai thêm vài ba xị đế. Không tin, thì hỏi bả coi!

 

 

 

 

27 – BẮT CÁ LUNG TRÀM

    Vùng Lung Tràm nổi tiếng cá nhiều, vào mùa hạn, cá lội về đục nước, nó táp mồi như nước cơm sôi vậy.

    Nhớ năm đó, tao với thằng Đậu chống xuồng đi giăng câu về mần mắm cho công cấy ăn.

    Hai ông cháu tao chống xuồng đi tới cuối kênh Lung Tràm thì giăng câu của tao vướng chà rớt xuống kênh nên phải chống xuồng nghỉ. Nhân đó, tao kêu thằng Đậu rà xuống để gỡ lưỡi câu. Mới thò giò xuống định quơ thử nó mắc gốc chỗ nào thì bất ngờ bị con cá lóc đói táp nghe cái “bốp”. Tao thất kinh rút lẹ chân lên, máu chảy ròng ròng còn lủng lẳng con cá lóc bằng bắp vế, áng chừng không dưới năm ký.

 

    Sau khi lấy thuốc, dầu ra cầm máu rồi băng bó xong, tao lấy sào dò tìm lưỡi câu mắc gốc.

    Quơ tới quơ lui không thấy gốc đâu, ông cháu tao đành nắm giềng câu phăng tới. Té ra, giềng câu trăm lưỡi của tao bị cá ăn trì níu chứ nào phải bị gốc cây, mắc chà.

    Đêm đó, tao với thằng Đậu gỡ cá đã đời luôn, gỡ cho tới hừng đông. Lui cui gỡ cá ở đầu này, thì đằng kia cá quẫy ì đùng hỏi không mê sao được. Ông cháu tao phải lấy rổ xúc cá nhỏ đổ xuống kinh cho xuồng bớt khẳm mới dám chống về.

28 – NÓI DÓC CÓ SÁCH

    Có lần, thằng cảnh sát Xọn ở trụ sở xã Khánh Bình Tây sai lính dân vệ lên bắt tui về, vì ba năm rồi tui không đóng thuế đất, và không chịu làm thuế ước cho nó. Theo lời thằng Ủy viên tài chánh Mi, là tui phải đóng số tiền là hai mươi bảy ngàn tám trăm sáu mươi ba đồng bốn cắc tư. Hừ ! Cái thân già làm không ăn, không có một đồng xu cạo gió, tiền đâu mà đóng cho nó dữ vậy ? Thế là chúng giam tui ba ngày liền không thả về.

    Đến buổi chiều thứ tư, thấy trời chuyển mưa mù mịt, tui mới nghĩ ra một kế, bèn ngồi khóc. Thằng cảnh sát Xọn thấy vậy hỏi, tui mới nói thiệt với nó :

    - Không nói giấu gì cảnh sát. Mấy ngày nay tui tính không đóng tiền, nhưng chuyện đó quả là lỗ quá rồi. Số là tui tiếc có hăm mấy ngàn mà giờ chịu bỏ tới mấy trăm ngàn, uổng biết bao nhiêu ! Bó bạc tui giấu trên đọt dừa, bà nó ở nhà làm sao mà biết để lấy vô. Mưa điệu này chắc là rã tan hết.

    - Vậy thôi, ông hãy dìa rút lấy đi, rồi mai đem tiền xuống đóng !

    Thằng Xọn sốt sắng bảo tui như vậy, rồi thả tui về.

    Ba bữa sau, rồi mười bữa sau, tôi cũng không moi đâu ra tiền mà đem xuống đóng cho nó. Thằng Xọn biết là mắc điếm tui nên báo ra quận. Thằng Nhung, quận trưởng quận Rạch Ráng sai lính bảo an vô bắt tui nữa.

    Ra đến quận, thằng Nhung điểm mặt tui thách :

    - Nghe đồn bác nói dóc dữ lắm hả bác Ba Phi ? Mấy thằng tề xã mắc điếm bác, chớ tui thì... còn lâu !

    - Tui chỉ nói dóc lai rai để giúp vui cho trẻ lối xóm vậy, chớ đâu dám nói dóc với quận, quận trưởng như ông.

    Tên quận Nhung cười ngặt nghẽo :

    - Bác nói dóc cho tui tin thì tui sẽ thả bác về liền đó.

    Tui làm ra vẻ uể oải :

    - Quận trưởng là người lớn, có nói dóc thì cũng phải tra sách vở đàng hoàng chớ ai dám nói tay ngang.

    - Bác nói dóc có sách à ?

    - Ba bộ : Thượng, trung, hạ, đều có đủ cả.

    - Vậy bác về lấy bộ nào cho thật tốt, đem xuống tui xem.

    Tui xin thằng quận Nhung ra chợ đón xuồng quá giang về nhà. Ba bốn ngày sau, không tthấy tui xuống, thằng quận Nhung nhắn bảo tui đem sách xuống cho nó. Tui mới nói lại với người đem tin rằng : “Anh về nói với quận trưởng là cuốn sách nói dóc nhứt tui đã giao hết cho ổng hồi bữa đó rồi”.

29 – CON CUA CHÚA

    - Hôm nay rảnh, chẳng có gì làm, ngồi không một chỗ không chịu nổi. Mình đi tìm việc gì làm đi Hai Lúa.
    - Chà ! Ý kiến của bác Ba hay đó. Đi liền đi !
    Thế là hai bác cháu xách đồ nghề bắt cua đi thẳng ra đồng. Quần cả buổi mà chẳng có con cua nào, bác Ba Phi chán nản ngồi phệt xuống bờ ruộng. Chợt bác Ba kêu lên:
    - Í ! Cái hàng gì lớn quá vậy Hai?
    Bác lội xuống ruộng tới bên cái hang xem xét.
    - Xem nè, chú nhìn kỹ đi, có phẩi chỗ này có đầy những vết chân cua không ?
    - Kỳ cục thiệt ! Đây đúng là dấu chân cua không sai chạy chút nào, chỉ có điều... sao nó lớn quá vậy ? Đâu có con cua nào lớn đến như vậy chứ!  
    Bác Ba quỳ gối trước cái hang, rồi thọc nguyên cánh tay vào hang.
    - Để coi nào... Chà ! Hình như là... Oái ! Á da...
    Ba Ba la hoảng rồi rút nhanh tay ra khỏi cái hang, lôi theo trên bàn tay là một con cua đang kẹp dính cái ngón trỏ.
    Hai Lúa thấy cua thì khoái chí:
    - A ! Một con cua bự...

 

    Đau quá, bác Ba Phi cố sức vung tay thật mạnh, con cua văng ra đất, Hai Lúa liền nhào tới chụp ngay. Nhưng bác Ba thì cứ la oai oái:
    - A... a... a... đau quá ! Gỡ con cua ra giùm tao coi, Hai Lúa.
    - Ủa ? Con cua rớt ra rồi mà bác Ba ! Chỉ còn cái càng là kẹp tay bác thôi.
    - Nhưng... nhưng mà cái càng kẹp cũng vẫn đau quá ! A... a...
   

Cuối cùng thì cái càng cua cũng được gỡ khỏi tay bác Ba.
    Hai Lúa xăng xái:
    - Bác Ba tránh ra để tui ! Coi nè... bàn tay của tui đã bắt không biết bao nhiêu là cua rồi, đừng hòng có con cua nào kẹp được. Nó mà dám... Ui... ui... Ái, ái...

    Bác Ba cười ngất:
    - Làm gì mà la làng dữ vậy mậy?
    Hai Lúa rút tay ra nghe cái rẹt. Lủng lẳng nơi tay hai Lúa là năm con cua. Bác Ba kêu lên:
    - Trời đất ! Một lúc tới năm con cua!
    Hai Lúa la chói lói, vung vẩy một hồi, cuồi cùng thì năm con cua cũng rớt ra, nhưng... năm cái càng thì vẫn dính trên năm ngón tay Hai Lúa. Lần này thì bác Ba phải lui cui gỡ năm cái càng cua ra khỏi năm ngón tay Hai Lúa. Tuy vậy, Hai Lúa vẫn không chịu thôi, bèn lom khom thọc cái móc sắt vào trong hang dò dẫm.
    Bỗng “cốp” một tiếng lớn, Hai Lúa bị lôi tuột đến sát miệng hang. Nổi sùng, Hai Lúa chịu một chân vào bờ đất ráng sức kéo, hằm hè:
    - Mày muốn thử sức Hai Lúa hả ! Để tao kéo đầu mày ra thử coi mày dữ dằn tới cỡ nào!
    Nhưng Hai Lúa gồng hết sức kéo mà vẫn không được, bác Ba Phi phải nhào tới ôm Hai Lúa rồi ráng sức kéo... Hì hục mãi, thình lình “soạt” một tiếng, cả hai mất thăng bằng ngã ngửa ra đất. Nơi miệng hang văng ra một con cua lớn bằng cái nia, nằm chỏng gọng giơ chân giơ càng lên trời.
    Bác Ba Phi hết hồn:
    - May mà nó bị lật ngửa, chứ nếu không nó tặng cho bác cháu mình một người một càng coi như trời cứu. Phải tìm cách mang nó về mau. Không khéo nó lật trở lại được thì khó mà bắt.
    Bác Ba Phi dáo dác nhìn quanh, cuồi cùng tìm một sợi mây dài. Cả hai phải vất vả lắm mới lừa thế trói được con cua mang về. Con cua lớn quá, bác Ba phải bỏ nó vào một cái vại lớn, bên trên nắp có dằn mấy cục đá to.

    Nửa đêm, cái vại nhốt con cua chúa bỗng vang lên những tiếng động lạ rồi cái vại nứt ra vỡ tung, con cua liền chui ra ngoài, bò nhanh ra vườn. Con chó  phèn đang nằm lim dim trước sân nhà nghe tiếng động lạ liền phóng ra chặn đường nghểnh cổ nhìn con vật lạ. Bị chặn đường, con cua chúa e dè dừng lại dò xét. Con phèn chầm chậm bước tới đưa mũi ngửi để tìm hiểu đối thủ, bất chợt bị con cua kẹp trúng ngay mũi đau điếng. Đau quá con phèn cố vùng thật mạnh, may mà thoát ra được, vội cong đuôi chạy trối chết trở vô nhà, vừa chạy vừa la ăng ẳng.

    Sau khi đuổi được con phèn, cua chúa nghênh ngang tiếp tục cuộc đào tẩu. Khi nó bò ra tới giữa vườn thì gặp một chú ngỗng đang đi kiếm mồi ở gần đó. Ngỗng thấy con cua thì mừng lắm, lạch bạch chạy tới, tấn công liền. Nhưng cái mai của con cua không hề hấn gì, mà trái lại, cái mỏ của chú ngỗng thì mẻ hết mấy miếng. Ngỗng đực còn đang bàng hoàng ngơ ngác thì con cua đã vung cái càng to ra...

    “Phập” một tiếng, cái cổ dài ngoằng của chú ngỗng đã nằm gọn trong cái càng của cua chúa. Bị kẹp trúng cổ đau quá, chú ngỗng vừa vỗ cánh đành đạch vừa la làng chói lói.

    Lần này thì tiếng kêu của chú ngỗng đã làm cho bác Ba Phi và Hai Lúa giật mình tỉnh giấc chạy ra xem. Cả hai trố mắt nhìn cảnh tượng diễn ra trước mặt. Hai Lúa kêu lên :

    - Trời ! Con cua chúa nó kẹp cổ con ngỗng lôi đi trên cỏ. Con ngỗng chắc tiêu với nó rồi.
    Sẵn con dao phay trên tay, bác Ba xông tới chém liên tiếp vào con cua. Nhưng...
    - Trời ! Cái mai của nó cứng quá, chẳng hề hấn gì. Còn con dao của mình thì mẻ hết mấy miếng, cong vòng như lưỡi hái.

    Bác Ba chưa kịp phản ứng gì thì con cua đã vươn cái càng kẹp lấy con dao. Bác Ba ra sức ghị con dao lại mãi mà không được. Hai Lúa cũng nhào vô phụ kéo bác Ba ra. Bất ngờ con cua chúa nhả con ngỗng rồi dùng cái càng còn lại đớp vào tay Hai Lúa. Hai Lúa thất kinh phải buông tay, ngã ngửa ra phía sau. Trong khi đó bác Ba cũng buông con dao chụp ngay khúc cây đập lia lịa vào con cua. Không ngờ con cua như biết được ý của bác Ba, nó liền giơ càng chực sẵn, khúc cây vừa đánh tới nó kẹp luôn khúc cây rồi giữ cứng không chịu buông, mặc cho bác Ba cố sức lôi kéo đủ cách.

    Trong lúc bác Ba Phi đang cố sức lôi kéo thì con cua chúa bất ngờ dùng cái càng còn lại “phập” một cái, khúc cây đứt lìa làm bác Ba té lăn cù ra đất.
    - Oái ! Bớ người ta cứu tui!
    Chú Tư Rô nhà gần đó nghe la vội chụp cây cuốc chạy sang. Thấy vậy, chú Tư liền vung cây cuốc lên cuốc vào mai con cua chúa.
    “Cảng”, tiếng va chạm tóe lửa mà cái mai con cua vẫn trơ trơ, trong khi cây cuốc của chú Tư thì gãy cán, lưỡi cong vều. Chú Tư hoảng hốt:
    - Trời, trời ! Đúng là hết biết!
    Con cua vẫn không chịu bỏ đi, nó nằm lù lù một đống giơ hai càng lên như khiêu khích.
    Bác Ba Phi vỗ trán cái “độp” rồi nói:
    - Có cách rồi... Chú Tư mày đứng ở phía trước chọc tức gây sự chú ý của nó, còn chú Hai Lúa thì đứng ở phía sau chờ cơ hội dùng gậy bẩy cho nó lật ngửa lên. Phần còn lại để tui lo.Dặn xong, bác Ba chạy vội trở vào nhà. Hai Lúa và Tư Rô cứ theo lời bác Ba mà làm...

    Một lát thì con cua đã bị lật chỏng gọng, giơ càng lên trời. Vừa lúc đó, bác Ba Phi từ trong nhà chạy ra, trên tay bác là nồi nước đang sôi ùng ục. Bác Ba chạy đến đổ ào nồi nước sôi lên con cua chúa. Con cua lãnh nguyên nồi nước sôi, mình mẩy bốc khói lên nghi ngút, nó ngo ngoe một lúc rồi nằm im hẳn. Mai và càng cua chín đỏ hồng, bốc mùi thơm phưng phức.

    Sáng hôm sau, một bữa tiệc “cua bảy món”, toàn thịt cua của con cua chúa được dọn ra đãi cả xóm. Đã đời thiệt!

30 – BẮT NHÁI BẦY

    Mùa mưa lại về. Ông trời vần vũ mây đen, sấm chớp rần rần cả góc trời, cứ như thế, độ tàn điếu thuốc thì mưa như trút nước. Ếch, nhái, ễnh ương bắt đầu rộ lên điếc cả tai.

    Ngồi nhìn mưa một hồi, thằng Đậu chợt lên tiếng :

    - Nội nè ! Mưa lớn vầy, mình đi soi nhái nghen nội.

    - Ừ, đi thì đi.

    - Vậy, để tui chuẩn bị đèn soi.

    - Khỏi.

    Thấy thằng Đậu cứ trố mắt mà nhìn, tao phẩy tay nói :

    - Soi nhái mà bắt vô rọng từng con biết chừng nào mới có ăn. Tối nay, ông cháu mình bài binh bố trận gọi nhái về trước sân nhà từng bầy, cứ bắt bỏ vô lu, sáng mai, con Mè chèo xuồng đem ra chợ bán, hốt bạc. Giờ mày vào trong biểu con mè chuẩn bị cho nội một số lu, số mái và mấy cái mùng.

    - Chi vậy nội ?

    - Ậy ! Cứ theo lời nội mà làm đi, hơn nữa, thiên cơ bất khả lậu mà.

    Tối đến, tao giao con Mè trải ba cái mùng lớn ra giữa sân, bốn gốc cột bốn sợi dây dài để kéo túm lại cho lẹ, bốn góc sân cột bốn cây đuốc để nhái thấy đường. Cắt đặt xong, tao xách giỏ ra vườn bắt nhái... đực.

    - Làm sao biết nhái đực hay cái hả nội ?

    - Dễ ợt. Thường đầu hôm thế này chỉ có nhái đực nhảy ra khỏi hang, còn nhái cái phải tận khuya, chờ nhái đực kêu ra rả nó mới bò ra.

    Mình bắt nhái đực để dụ nhái cái về sân cho mình thộp cổ... tha hồ.

    Về tới nhà, tao đặt mỗi giỏ nhái đực vào giữa mỗi cái mùng trải sẵn. Đâu chừng hút tàn hai điếu thuốc thì lũ nhái đực đã bắt đầu kêu ran, hệt như một dàn nhạc hòa tấu cổ kim có tập dượt sẵn. Quả y, một lúc sau, hằng hà sa số nhái cái nhảy vào mùng. Càng về khuya, lũ nhái càng kéo về càng nhiều hơn, chúng nhảy tới từng đàn, làm rạp cả cỏ thành một con đường mòn từ cánh đồng mênh mông trước mặt rừng dẫn đến sân nhà tao. Khoảng ba, bốn giờ sáng, thì bọn nhái về thưa dần. Lúc này, hai chục lu nhà tao đầy nhái và nhái, chúng kêu điếc cả tai, khiến cả nhà phải thức trắng đêm, không ai chợp mắt được.

    Hổng tin, hỏi bả thì rõ.

31 – HỖN CHIẾN VỚI CÁ LÓC

    Một bữa nọ, ông cháu tao vào rừng thăm rẫy. Trên đường đi chẳng hiểu ơ hờ thế nào lại lọt tùm xuống mương.

    - Mát quá hén nội. - Thằng Đậu cười lên thích thú.

    - Ừ. - Tao gật đầu đồng tình - Uống một bụng nước... mát dễ sợ.

    Bỗng nhiên... “phập”.

    - Úy trời ! Nội ơi ! Cái gì thế này ?

    Lại một tiếng “phập” tiếp theo.

    Ra là một lũ cá lóc to lớn dị thường, chúng sống dưới mương, bụng đang đói meo vì đã lâu chúng không có thức ăn. Khi ông cháu tao rơi xuống, tưởng mồi ngon, chúng liền phóng lên đớp, táp lốp bốp.

    Thằng Đậu lạnh cả xương sống, sẵn cây giáo cầm tay, nó vung lên tả xung hữu đột với lũ cá lóc, vừa bảo vệ cho ông nội vừa che chở cho mình để cả hai cùng leo lên bờ. Trông thằng Đậu lúc này chẳng khác gì Triệu Tử Long phá vòng vây Tương Dương cứu ấu chúa.

    Thoát khỏi vòng vây cá lóc, hai ông cháu tao mệt đừ, ngồi thở dốc, kiểm điểm lại thương tích trên người. Cũng may, tất cả là máu cá, chỉ tội bộ đồ ông cháu tao đang mặc lên người, áo chỉ còn lại cổ, và độc nhất chiếc lưng quần với sợi dây buộc ngang. Hai ông cháu tao đành lấy lá rừng quấn quanh người để có thể trở về nhà.

32 – THỤT NÒNG Ô BUÝT

    Mùa hạn năm đó, tôi đi rừng ăn mật ong. Mang gùi, xách mác, lội cả buổi vẫn chưa tìm thấy một tổ ong nào. Trong lúc thối chí, tui định quay về, bỗng gặp một tổ ong bự thôi là bự. Nó đóng trên một cây tràm bằng cổ vế, thân tràm cong xuống như một cần bẫy. Đứng xa nhìn lại, thấy những con ong già chớp cánh tợ có ai cầm một tấm vải gấm mà phất.

    Tui nổi lửa đốt thuốc, rề vô thổi. Ổ ong đóng quá cao, lúc thổi, tui phải trèo lên ngồi trên đầu kèo. Ong già bay đi hết, tui dùng cây mác mà xeo mật. Thật cũng sơ ý, tôi vừa nạy sứt khúc mức với tấm tàn ong thì cây kèo tràm bỗng bật lên, bắn tui văng đi cái vèo. Ôi trời ! Tui nhắm mắt chịu trận. Bay đến mãn trớn, tui bị rớt xuống ngay một đám rẫy của ai ? Rẫy trồng bí đao, trúng quá sá kể!

 

    Sau lúc định thần, tui xác định phương hướng. Đây là vùng rẫy Năm Căn. Và tui nghĩ cách để trở về nhà. Sẵn còn cầm cây mác trên tay, tui cắt một trái bí đao, bổ đôi ra theo chiều dọc, khoét bỏ ruột, làm xuồng. Tui quơ thêm một mớ củi khô, bỏ vô xuồng, đẩy ra sông, theo nước xuôi thả về biển, hướng về phía vàm Ông Đốc. Xuồng đi đến nửa đêm. Tiết tháng Chạp, trời lạnh quá, tui mới nhen lửa, chất củi vô đốt để hơ cho ấm. Nào ngờ, tui lại vô ý để lửa cháy làm chín mất một lỗ “chiếc xuồng vỏ bí” của tui. Nước xoi mội, chảy vô ào ào một hồi, chiếc xuồng chìm ngấm. Tui cứ nương theo ngọn sóng mà lội vô bờ. Nào ngờ lội một hồi, tui bị sóng đánh tấp vào một bè hạm đội nổi của bọn Mỹ mới là gay. Bốn bên trống hoang. Tụi nó cờ bạc gì ở trỏng, nói chuyện xí xô xí xào. Túng quá, tui phải chui vô họng một cây ô-buýt lớn nhất trên hạm mà nằm cù co chỗ ở cò súng. Nằm một hồi, nghe ấm quá, tui ngủ một giấc.

    Tới chừng nghe có người rục rịch bên ngoài, tui giật mình thức dậy thì, trời ơi, bọn lính đã nạp đạn vô súng nghe một cái rốp. Chưa kịp chui ra, tui liền bị chúng nhấc cò cái bụp. Toàn thân tui bị bắn ra, cọ vào nòng súng kêu nghe cái “có...ét”. Mình mẩy tui nóng phừng. Gió rít hai bên lỗ tai tui vèo vèo. Đến mãn tầm, tui bị rớt xuống đất nghe một cái bịch. Thật bọn Mỹ ở hạm đội nổi tại sông Ông Đốc chơi ác quá, chúng lấy tui làm nùi giẻ lau nòng súng cho chúng.
Sáng ra, tui thấy mình được chúng bắn rớt nhằm vào vùng đất Khánh Bình Tây, ngay sau hè nhà mình.

33 – KẾ SÁCH GIỮ ĐẤT

    Ngồi buồn, bác Ba Phi nhớ chuyện xưa, ngày ấy... Ở vùng U Minh “khỉ ho cò gáy” này, việc tìm ra một cái quán quả là không dễ dàng gì, nên sự xuất hiện cái quán nhậu của thím Hai Ú ở đầu vàm kinh Chín Bộ đã là điểm thu hút có một không hai đối với tất cả những ai muốn kiếm chai rượu uống “cho nó giãn gân giãn cốt sau một ngày lao động cật lực ở xứ Lung Tràm”.

    Vì thế, quán đông vô kể, đông đến nỗi không đủ chỗ ngồi, khách đến nhậu cứ tự tìm chỗ trống rồi trải đệm ra mà gầy sòng. Nhất là chiều nay, quán đông một cách đặc biệt. Khách chật ních từ trong ra ngoài. Bởi, họ đến không phải đơn giản để ăn nhậu mà họ còn muốn xác định xem một cái tin động trời được loan truyền từ mấy bữa nay là có đúng sự thực hay không mà thôi.

    “Tin động trời” ấy xuất phát từ thím Hai ú. Thím thề quả quyết với mọi người rằng : chính tai thím nghe thằng Từng Khạo Phương sau khi nhậu say gây lộn với Tư Ruộng nên buột miệng nói ra việc hội đồng Cầm cấu kết với tụi cò Pháp chờ mùa khô tới sẽ kéo vô cắm cột mốc đất rừng, hòng cướp đi nguồn lợi mà bà con lâu nay đang khai thác trong rừng tràm U Minh như: mật ong, cá, chim chóc cùng muông thú.

 

    Đối với bà con miệt rừng, mất rừng là mất đi nồi cơm. Vậy cho nên mọi người già trẻ, thanh niên tụ họp về đây bàn tính bằng mọi giá phải giữ cho được từng tấc đất mà bao đời họ đã đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có thể tạo dựng lên.

    Tính toan nát nước, cuối cùng họ chọn giải pháp cử Hai Lúa cùng nhiều lão làng đi gặp hội đồng Cầm chất vấn.

    Hội đồng Cầm không phải tầm thường, hắn ta thuộc loại cáo già, không nghe bà con nông dân gạn hỏi, đứng trước sân lẫm lúa, chống ba-toong hắn ta dõng dạc :

    - Tôi không cướp đất của bà con, ruộng ai thì cứ làm, còn đất rừng thì do bảo hộ Pháp. Nhà nước Pháp chỉ cắm cột mốc đất rừng rồi giao cho tôi quản lý, sau này ai có đi rừng thì phải đóng thuế, vậy thôi. Bà con không đồng ý thì cứ đi kiện, tôi sẵn sàng theo hầu.

    - Ông hội đồng nói sao ? Ông thiệt không lấy đất của bà con khai phá hả ?

    Ông hội đồng vừa dứt lời, thì bất ngờ từ phía sau có một trung nông lối ngoài bốn mươi, đầu vấn khăn rằn vẹt đám đông bước ra hỏi.

    - Đúng đó. - Quơ quơ cây ba-toong, hội đồng Cầm khinh khỉnh. - Tới hạn, địa bộ Nhà nước sẽ đi cắm cột mốc đất rừng, chỗ nào bà con khẩn hoang làm ruộng thì chừa ra, để lại cho bà con mần lúa kiếm ăn. Nếu bà con không tin thì để tôi lập quy kỳ hẳn hoi.

    Cầm tờ giấy cam kết trong tay, mọi người ra về mà lòng buồn rười rượi. Hai Lúa cho mời người đàn ông trung niên ban nãy:

    - Nè, chú em ! Nói cho mấy qua biết chú em tên họ là chi ? Quê quán xứ nào ? Có vợ con gì chưa ? Tại sao lại có mặt nơi này ? Thú thiệt, lúc nãy nghe giọng ăn nói cứng cổ của chú em với tay hội đồng là qua khoái lắm.

    - Dạ, chẳng dám giấu chi, tôi thứ ba, tên Phi, bị lính của Pháp tróc nã từ bên Xiêm La, nhắm bề trốn không thoát nên cùng đường phải chạy về tận đây để tìm bề nương thân.Gia cảnh nghèo khó, túng thiếu rày đây mai đó, nên tui chưa nghĩ tới chuyện lấy vợ, chỉ làm khổ con gái người ta, chớ lợi ích gì.

    - Thôi, chú em mày đừng buồn. - Vỗ vai Ba Phi, Hai Lúa an ủi - Đã đến thì cứ ở, chỉ cần chịu khó làm ăn, để rồi qua đây nói với tía vợ gả cô Út cho chú em, hai đứa tụi mình sẽ là anh em cột chèo. Mà nè ! Qua nói cho chú em đây biết, bà con mình sống ở xứ này ngoài ruộng ra thì nhờ vào nguồn huê lợi của rừng tràm, nếu để mất thì có mà chết.

    Nghe Hai Lúa than thở, Ba Phi ngồi trầm ngâm một lúc rồi kề tai Hai Lúa nói nhỏ mấy câu. Nghe xong, Hai Lúa cười thích chí, sau đó đứng bật dậy tuyên bố nhận Ba Phi là dân U Minh, lại còn gả luôn cô em vợ.

    Mùa khô tới, hội đồng Cầm đi cắm cột mốc để chiếm đất, nhưng đã thất bại vì đến đâu cũng thấy gốc rạ, nghĩa là nơi đó bà con Lung Tràm đã khai phá.
Và “kế sách” giữ đất của Ba Phi coi như quà cưới có giá trị nhất trần đời, vì nó đã giữ được rừng tràm, khiến cho thằng địa chủ không lấy được một cục đất để chọi chim, huống hồ gì chiếm được cả rừng tràm.

34 – ONG ĐÁNH GIẶC

    Nhớ năm đó, có thằng trung úy mới về đóng đồn ngoài đầu kinh Chín Bộ, nó thường hay dẫn lính vô càn xóm mình lắm, bởi nó mê con út nhà tao, nên hay đi càn vô đặng thăm con Út. Hở ra là xáp vô, nựng má, nựng cằm, thấy mà nổi dịch, làm con Út sợ thất kinh hồn vía. Giận trong bụng, tao mới tìm cách trị cho thằng trưởng đồn dại gái một trận cho bỏ cái tật dê không có văn hóa.

    Một bận, thằng Đậu lùa trâu về, cái mặt sưng húp vì tội ong đánh. Theo lời của thằng Đậu thì quả có tổ ong cỡ sấp hai cái thúng táo.

    - Được, kỳ này cho mấy thầy trò đám lính ngoài đồn biết mùi ong vò vẽ đánh một trận để nhớ đời.

    Sáng bữa sau, có lính đi càn. Ngay đêm đó, tao liền lấy khúc mốp tiện cho vừa bằng cái miệng tổ ong, chờ ban đêm ong chun vô ổ ngủ mới đem ra nhét bít miệng lại, trên cái nút cây tao làm thế cột sợi dây nhỏ căng ngang đường đi như mấy chú du kích gài lựu đạn rồi ngụy trang thật kỹ.

    Bữa sau, tụi lính mò vô tới. Thằng đồn trưởng ghé nhà tao để ghẹo con Út.

    - Nè ông Ba ! Cô Út đâu ?

    - Nó xuống biền róc cà bắp rồi !

    Thằng đồn trưởng lội xuống biền. Tụi nó đi, tao chưa hút tàn điếu thuốc thì nghe cha con nó la vang trời, tao còn nghe thấy tụi nó phóng xuống kinh đùng đùng, lặn tránh bị ong đánh.

    Bị ong đánh một trận tơi bời khói lửa, bỏ luôn trận càn, thằng đồn trưởng biết bị tao cho một vố giận lắm, nhưng không có chứng cớ, nên hận ghê gớm. Sau trận đó không lâu, thì bọn giặc mở nhiều trận càn hơn, lần này thì có thêm xe lội nước và máy bay đầy trời khiến đám du kích xã kham không xuể. Nghe vụ tên đồn trưởng bị ong đánh tơi tả, bỏ càn, thằng Tám FM tìm đến tao nhờ giúp một tay.

    - Tưởng chuyện gì chớ ba cái vụ đó là đồ bỏ của Ba Phi, nhưng phải cho tao thời gian khoảng ba tháng để tao gầy ong thêm.

    Đúng y như vậy, liên tiếp mấy trận càn, nhờ có mấy chục tổ ong vò vẽ giúp sức rượt đám lính cùng tụi cố vấn chạy vắt giò lên cổ, nên tụi nó hết dám đi càn vùng U Minh. Từ đó, bà con mình mới yên ổn làm ăn.

35 – CHÉM TRỰC THĂNG

 

    Bữa đó, tui đang phát vườn thì có một chiếc máy bay đầm già từ hướng Cà Mau rề rề bay xuống. Chúng đảo vòng vòng khu vực Lung Tràm, Kinh Ngang. Chuyện đó thường thôi. Tụi Mỹ, Diệm không đi coi chỗ đóng bót thì cũng vẽ họa đồ để lấn đất. Nghĩ vậy, tui cứ yên trí lom khom phát tới.

    Không ngờ đảo một lát, chiếc máy bay lại siết vòng ngặt ngay đất tui. Tui nóng mặt, xách phảng ra đứng bờ hậu, chống nạnh nhìn. Bất thần, chiếc đầm già bị lệch tay trái, húc vô ngọn cây dừa lão ở bờ ranh đất tui một cái ầm, làm cây dừa gãy lòi củ hũ. Tui nổi xung, xách phảng chạy đón đầu, định dứt cho nó một nhát. Nhưng thằng Mỹ tài công thấy tui hằm hằm, liền bẻ lái trịch ngang, ló mặt ra, đưa tay vẫy, cười làm lành :

    - Chào mông-xừ Ba Phi ạ ! Xin lỗi, lỡ đụng chút thôi !
    Tui nạt lại :

    - Chém chết mẹ mày chớ lỡ !

    Nhưng nó đã chạy tuốt về Cà Mau.

 


    Bị tui chửi, nó giận, sáng bữa sau đem trực thăng vô đổ quân đánh trả thù. Từ sáng cho tới trưa, nào là “cồng cộc”, phản lực bỏ bom mù trời, nào là “cán gáo” xoáy vo vo khắp bờ liếp. Có cái hầm của mẹ con cô Hai Xoài ở cặp ranh đất tui bị “cán gáo” phát hiện, chúng đớp vào lia lịa. Tám mẹ con cô ta kêu la ùm trời. Tui đang ôm cây phảng chém vè gần đó, nghe con nít la khóc quá chịu không nổi, liền vọt lên tiếp cứu. Hai chiếc “cán gáo” cứ đớp vào một chỗ như cặp chuồn chuồn đá nước. Chúng chọi bộc phá nổ ình ình, đất tung lên có ngọn. Tiếng con nít, tiếng đàn bà khóc la thảm thiết ! Ruột gan tui như bị ai vò xé chín khúc. Không còn biết sợ gì nữa, tui vung phảng nhào vô chém ngay đầu một chiếc “cán gáo”. Thằng Mỹ thấy tui liều mạng, nó hoảng hồn, bẻ tay lái ngang, bê cái đuôi trở lại. Thuận đà, tui vớt trái một phảng nữa. Chiếc “cán gáo” rụng lìa khúc đuôi. Thằng Mỹ cắn răn nhăn mặt, kềm cứng tay lái cho chiếc “cán gáo” cắm đầu xuống Lung Tràm. Ba bữa sau, xác thằng Mỹ nổi lên, cái mặt nó còn nhăn nhó và hai hàm răng của nó như cắn chặt lại.

 

36 – LÚA NỞ NGẦM

    Năm đó, ruộng vừa cấy xong là trời chụp mưa xuống lu bù suốt nửa tháng liền, mấy cánh đồng như Lung Tràm, Kinh Ngang nước lên mênh mông lai láng. Ba ngày gió nổi, sóng bổ có vòi. Đồng lúa mới cấy, ngập lút mất tăm. Trên mặt ruộng chỉ còn số ít loại cây điên điển trổ bông vàng lơ thơ. Đêm đêm, bầy cúm núm phải đậu trên ngọn sậy mà gừ. Tiếng “cum cum”... “cóc cóc” trải vẳng trên mặt nước đồng nghe mà nẫu ruột ! Thôi thì ai cũng tính mùa ruộng năm nay đi theo bà thủy hết rồi, nên kẻ thì mua trúc về đan lờ, người thì đốn tre vô, cắt trúm định làm nghề bắt lươn kiếm ăn. Tui thì ngồi khoanh tay rế, than vãn thở dài với vợ con mà chịu trận.

    Qua đợt mưa, nắng bắt đầu tốt lại. Tui lủi thủi chống xuồng đi thăm ruộng. Thì thăm cho có chừng vậy, chớ còn gì nữa mà mong. Đồng nước như biển, sóng ba đào, lúa thóc nào mà còn cho được ?

    Lạ thay, lúc tui chống xuồng ra tới giữa đất, thì bỗng thấy nhiều đốm trăng trắng đang loi nhoi đằng xa. Chống riết lại, tui coi kỹ. A ! Những con chàng bè ! Tại sao chúng lại mắc kẹt đầu dưới nước, hai cẳng chổng lên và chòi đạp chới với vậy ? Lấy làm lạ, tui nhảy ùm xuống, mà coi. Úy trời đất thánh thần ơi ! Ruộng lúa còn sống nhăn ! Lúa đang nở ngầm dưới đáy nước. Lúa chuyển mình nở nghe rào rào. Những con chàng bè này mò cá ăn thọc đầu mò vô gốc lúa bị lúa nở mắc kẹt, không rút lên nổi. Khoái quá, tui chống xuồng đi “nhổ” chàng bè. Tui “nhổ” một lát, trút bỏ đầy nhóc xuồng be tám. Chống xuồng về nhà, tui cho bà nhà tui hay, bảo ngày mai cắt tranh ra mà bó ba cái lúa đang nở ngầm lại, kẻo để đến mùa nó lép hết.

37 – HEO ĐI CÀY

    Nhà tui không nuôi bò, chỉ có một bầy heo với một bầy trâu. Đứng trong nhà dòm ra, thì chuồng trâu ở phía tay trái, chuồng heo ở phía tay mặt. Xứ này, vào mùa mưa là muỗi kêu như sáo thổi, trâu hay heo gì cũng phải căng mùng cho nó ngủ cả.

    Mùa cày năm đó, mưa chụp xuống hơi sớm, nên tui phải cày riết ba đám ruộng kẻo ngập nước mất. Cứ vậy, tôi cày xong buổi thì thả bung ba con trâu ra cho bà nhà làm gì thì làm. Đầu canh năm, bả kêu tui thức dậy mở chuồng, lùa trâu ra ruộng tiếp tục cày nữa. Tui chỉ để ý có một điều là lúc nằm ngủ phải quay đầu vô vách, để khi giật mình thức dậy đứng lên, đi ngay mở chuồng trâu phía tay trái rồi lùa đi.

 

 

 

    Trâu nhà tui có con đực pháo và con cái chim là cặp hay nhứt. Giống trâu “phồn” mạnh vô cùng, vai ngang, bụng thắt, mông to, đi bền hết kể. Một đêm, mới đầu canh năm là tui lùa trâu ra ruộng, gác ách, cày. Trời còn tối, nhìn hai con trâu bữa nay kéo cày, tui lấy làm lạ. Hồi lùa ra thì chúng chạy lúp xúp, đến chừng cày, chúng lại kéo đi vù vù, hăng hái vô cùng.

    Tui đánh trâu cày đến sáng. Khoảnh đất một mẫu tây đã được khoanh hơn bảy vòng nong. Nhưng mặt trời càng lên, cặp trâu càng đi chậm. Tui cứ cầm cày, mắt ngó xuống đường miệng la : “Vó vô pháo ! Thá ra chim”, tay thì quất roi tới tới. Lạ đời ! Chẳng những hai con trâu không chịu nghe ví thá gì, mà miệng cứ thở hồng hộc, bước đi lệt bệt đến nỗi muỗi mòng cắn vàng đít mà chúng cứ ngoáy ngoáy cái đuôi một khúc cụt ngủn, chớ không chịu thò ra quơ đập như mọi ngày.

    Cày thêm một lúc nữa, hai con lại nằm ì ra. Tui nổi giận đánh con bên này một roi thật mạnh, nó la “éc” một tiếng. Đánh con bên kia một roi, nó cũng la “éc éc” như vậy.

    Đến chừng nhìn kỹ lại, tui mới bật ngửa ra, hồi hôm, vì vợ tui sửa cái chõng ngủ ngược đầu, trước khi đi ngủ, nên quên để ý.

    Đến chừng nghe bả kêu, tui mắt nhắm mắt mở bật dậy, tôi cứ đi ngay ra mà mở chuồng phía tay trái như mọi bữa. Ai ngờ, lại mở lộn nhằm chuồng heo.

38 – CÁ TRÊ LUNG TRÀM

    Tui dẫn bầy chó săn vô Lung Tràm định lùng thịt, cũng dạo mùa nước rọt này đây. Dưới kinh, cá quẫy ùng ục, trên rừng chim chóc bay rần rần. Mình muốn kiếm bậy một con nai để làm đám kỵ cho bà già vợ, chớ loại cá, chim đó thường quá. Vùng Lung Tràm thuở đó còn đầy choại, dớn với cây tràm, đất thấp phập phều, bởi vậy người ta mới kêu nó là Lung Tràm.\

    Đã quyết đi vào khu vực có nai, nhưng đến mặt trời lên cao mấy sào, tui vẫn chưa hạ được một chú nào. Bị nhiều bạn săn quần tới lui hoài, nên “bể” hay “đổ” nhanh như gió. Mỗi khi nghe chó vừa đánh hơi sủa lên, tức thì nghe một tiếng “bét” là chỉ còn đứng mà ngó theo.

       Đến lúc mặt trời gần đứng bóng, người cùng chó đã mệt mỏi, tui mới rề lại một gốc cây tràm nghỉ mát. Chân bước từ từ, mắt cứ ngó dáo dác theo mấy con ong mật đang ăn bông trên đọt tràm, bất thần tui đạp lên mình một con nai chà đang nằm ngủ. Tui giật mình té ngửa, con nai cũng hoảng hồn nhảy dựng. Nó phóng một cái, đụng nhằm gốc cây to dội lại, té lên mình tui. Sẵn cầm cây mác trên mình, tui với chân sau con nai, khứa một nhát vào nhượng.

Còn lại ba chân, con nai cố bươn chạy. Bầy chó thấy vậy, đuổi theo. Bị rượt quá, con nai chạy giạt vào bìa rừng, phóng xuống Lung Tràm. Bầy chó chia làm hai, ven theo hai mé lung. Con nai lội qua bên này, thì lũ chó bên này tấn công, hễ lội qua bên kia thì lũ chó bên kia ví ép. Nó lúng túng, lội qua lội lại mãi… tui giục chó vây chặt và ép lần cho con nai lội về hướng nhà mình. Ra tới ngã ba lung, thấy thằng em tui đằng kia chống xuồng lại, tui kêu tiếp. Thằng em tui nhấn sào chống vọt tới bên con nai. Bấy giờ, con nai còn cố lội lờ đờ, cái đầu ngóc trên mặt nước. Thằng em tui với tay nắm lấy cái chà gạt con nai lôi mạnh lên xuồng. Nhưng trời ơi ! Con nai chỉ có cái chùm ruột lòng thòng dính ở phía dưới. Té ra nãy giờ nó bị cá trê Lung Tràm bu theo rỉa sạch trọn thịt thà, xương xóc. Bầy cá cứ vây lấy con nai mà rỉa thịt làm cho con nai cứ trồi lui trồi tới, vậy mà tui cứ tưởng con nai còn lội. Thằng em tui kéo luôn lên xuồng cùng với xác còn lại của con nai cả tạ cá trê, và con nào con nấy to bằng cườm tay người lớn.

39 – KHỈ CHẾT CƯỜI NHĂN RĂNG

    Thường ngày bác Ba đi phát, thì xách theo mo cơm với đồ ăn và cái ấm đựng nước uống. Bác ăn thứ gì, thì cho con khỉ ăn thứ đó. Vậy mà bữa nọ, bỗng bác quên phứt chuyện đem cơm ăn làm buổi đúng, thành thử bác gái phải đem cơm ra ruộng.

    Cơm nước xong, thấy trời nắng gắt, hai bác mới kéo nhau vô lùm cây ngả lưng tránh nắng. Thấy bác trai mần cực khổ, bác gái thương tình âu yếm. Bác trai nằm trong lòng cho bác gái nhổ tóc bạc chơi. Ngó ngoài đồng hoang vắng, gió mát, trời trong, bác trai động lòng phàm tục. Tới chừng ngó lại thì thấy con khỉ dòm lom lom, bác gái mắc cỡ, rủa yêu :

    - Đồ quỉ ! Làm ăn gì bất nhơn quá, hổng sợ con cháu nó cười.

    - Cười cái con khỉ ! - Bác Ba quay qua, bỗng thấy con khỉ ngồi nhăn răng cười thiệt.

 

 

    Chiều về, cơm nước xong, bác Ba bắc ghế ra sân hóng mát, thì con khỉ bỗng biết kêu: Chí ! Chí !

    Bác Ba sực nhớ chuyện hồi trưa, sợ lộ nên đưa đầu cho con khỉ bắt chí. Từ đó, nó truyền nghề cho con cháu sau này.

    Ở với người riết rồi con khỉ học được chuyện nói tiếng người. Một hôm, nó hỏi bác Ba: Tại sao con sáo bác nuôi mà không nhốt trong lồng, còn nó thì luôn luôn bị xiềng xích?

 

   Nghe nó hỏi, bác Ba bí rị. Mà thiệt tình là như vậy. Con khỉ thì đi làm đúng buổi với bác, còn sáo thì ở nhà nhông nhổng suốt ngày, lại còn được bác hái ớt hiểm cho ăn, bắt cả cào cào bỏ vào keo, đem về đút từng con cho nó. Bác ba suy nghĩ một lát rồi trả lời :

    - Tại vì nó biết bắt chước, mày không thấy sao ? Mỗi lần đi làm về, nó đều nói theo sắp nhỏ : “Hoan hô bác Ba” !

    Nó chỉ bắt chước chuyện người ta nói, còn mày thì bắt chước chuyện người ta làm. Tao phát cỏ thì mày phát; tao cấy thì mày cấy. Ở đời, bắt chước người ta nói thì được. Ví như tao đi làm về đang mệt mà nghe nó nói “hoan hô bác Ba” thì sướng còn hơn đi lên cung trăng. Còn mày mà lỡ sút xiềng ra, mày bắt chước tao... thì có nước tao vọt xuống sông, đội lục bình!

    Nhớ tới chuyện cũ, con khỉ ôm bụng cười lăn cho đến đứt ruột mà chết. Nó chết nhăn răng, thế mà bác Ba cứ tưởng rằng nó đang cười. Tới chừng quạu quá, bác lấy chân đá cho nó một cái, mới hay là nó đã chết tự hồi nào.

    Còn con sáo, không biết đứa nào cắc cớ dạy cho nó nói tầm bậy. Lần ấy, bác Ba đi làm về mệt, bác không nghe nó nói “hoan hô bác Ba” như mọi bữa nữa, mà thay bằng một câu khác.

    Nó vừa nói lên mấy tiếng “Bác Ba lấy...”, thì bỗng đâu con mèo từ xa nhảy đến, chụp lấy cái rẹt, cắn cổ con sáo, tha tuốt lên nóc nhà.

    Bác Ba lấy chiếc khăn rằn, lau mồ hôi trán, thở phào nhẹ nhõm.

40 – PHÁ LUẬT GIAO THÔNG

    Hồi đất rừng mới khai phá, xứ này trồng dưa hấu trúng lắm. Trái lớn từ ba gang tay vòng trở lên. Đố ai ra rẫy dưa mà ôm được ba trái, nhảy quá khỏi mương ống thì tui ở đợ cho tới già ! Mỗi năm vào mùa trồng dưa, thích thú làm sao. Gió chướng thổi hây hây. Dưa mới xây bàn than, lá xòa cánh quạt, dưa bỏ vòi lại phóng đọt trắng phau, cứ sáng ngày ra ruộng, thấy trái lớn lên như thổi.

    Từ Rạch Lùm, đến Trùm Thuật, Bãi Ghe vòng qua Kinh Ngang, Đường Ranh, Lung Tràm, một vùng dưa bạt ngàn ! Sáng sáng, con trai con gái, đứa đội nón nỉ, đứa mặc áo bà ba trắng, gánh thùng tưới nước đi hàng dọc trên những bờ mương ống. Thùng thiếc chói nắng lớp ngớp, gió chướng thổi rào rào nghe mát rượi trong lòng.

 

    Rồi đến gần Tết, vào độ mùa dưa chín, lái buôn miệt trên đổ ghe xuống lớp lớp để dọ giá, trả kèo, người trong rẫy cuồn cuộn ra các chợ sắm áo là, quần lụa. Dưa đi Cà Mau, dưa đi Bạc Liêu đều phải chở bằng xuồng, ghe, chớ không bằng xe được. Vì đường xe bấy giờ rất dằn xóc, dưa chở sẽ bể hết. Cò Tây đã cấm chuyện này từ lâu. Đúng là lộ xe thuở đó cũng gồ ghề thật.

    Mặc dù cò Tây cấm ngặt không cho chở dưa bằng xe, nhưng bữa đó chiếc xe đò Hiệp Thành phá lệ. Xe chạy từ Cà Mau lên tới cầu Sập, bỗng có một thằng cò Tây thổi tu huýt khoát tay, chận xe lại :

    - Tại sao chở dưa hấu trên mui xe ?

    Tên cò Tây hỏi. Người tài xế xe Hiệp Thành đáp :

    - Dạ đâu có, ông cò ? 

    Thấy tên cò Tây hầm hừ, người tài xế ngó ngoái lại sau, bỗng anh ta giật mình kinh hãi, trả lời :

    - Thưa ông cò, đó là đầu hành khách, đó ông xem kỹ lại đi ! Vì đường gồ ghề quá, xe chạy xóc quá làm đầu hành khách thốn lủng mui xe, trổ lên phía trên và mắc kẹt ở đó...

41 – TRE U MINH

 

    Hồi nẳm, tao có nuôi một cặp chim mái. Bữa nọ, thấy nó tha về ba hạt lúa giống rất lạ, hạt nào hạt nấy bự bằng ngón chân cái. Thấy lạ, tao đem cất, nhờ chăm sóc kỹ lưỡng nên ba hạt lúa mọc lên ba bụi lúa lạ lắm. Lá ngắn, có bề rộng, nó vọt lên cao ngất trời. Tao ngó kỹ thì ra đó là tre mạnh tông, có điều nó khác với tre xứ mình, nó chỉ mọc vào ban đêm, giấc chiều thấy măng đội đất thì sáng sớm hôm sau, nó vọt cao hơn mấy cây dừa lão xứ này.

    Dạo đó, ở xóm này có thằng chủ ấp Vện, ai cũng ghét hắn, tao cũng hổng ưa. Thằng này có tật mê đánh số đề một cây luôn. Biết yếu điểm của nó, tao chờ cơ hội điểm huyệt một lần cho nó nhớ đời.

    - Chú Út à ! Tui biết có một chỗ tới ngủ thế nào cũng nằm mơ thấy số đánh đề linh lắm, nhưng ngại một chút xíu nên chưa dám nói.

    Mắt thằng chủ ấp Vện sáng rỡ:

    - Đâu, chỗ nào, ông thử nói tui nghe coi?

    - Là trong bụi tre mạnh tông sau nhà, ông ôm chiếu ra đó ngủ thì sẽ ngon cơm thôi.

    Đêm đó, thằng chủ ấp Vện ôm chiếu chun vô bụi tre, bị măng mọc đâm đổ ruột, măng đâm nó tới xương sống thì xuyên qua hổng thấu nên đẩy nó bay cao lên khỏi đọt tràm hơn tầm đất.

 

Sáng ra, mọi người trong xóm kéo nhau vô coi đông như xem hát bội. Ai nấy cũng hả hê cho tài trí của bác Ba Phi này. Tay không đánh giặc.

 

42 – TRỨNG RỒNG ĂN XẮM XỊT MÀ HÔI MÙI TRO

    - Số là hồi nẳm, trời hạn, hạn gì đến lung bàu, đìa ao... cả xứ này khô hết trọi. Tới tháng tư, tháng năm rồi mà mây cứ vần vũ hoài không chịu mưa.  Nhà tui có dự bị sẵn hàng trăm mái nước mưa để xài. Súc vật trong nhà tui đều cho uống bằng nước mưa hết thảy. Thường ngày, tui múc ba thau nước để dưới bóng mát chỗ bụi tre xiêm trước cửa cho gà vịt uống.

    Bữa đó, tui thấy có mấy con rồng bay qua ngó dáo dác để tìm nước làm mưa. Có một con bay sau chót, vóc dáng coi bề sề, liếc thấy mấy thau nước, coi mòi thèm lắm, nó le lưỡi liếm mép. Tui định bụng bắt một con rồng mần thịt ăn chơi. Tui lấy ba sợi dây niệt trâu nối lại, một đầu cột vô bụi tre xiêm, một đầu khoanh cái vòng để trên miệng thau nước. Tui thay ba thau nước mưa thật trong.

    Bầy rồng đảo lại vòng sau, cái con rồng bề sề thèm nước nó liền hạ xuống, thọc mỏ vô thau nước, uống liền. Tui để cái vòng dây tròng đúng vô cổ nó, rồi cầm mác chạy ra nạt : “Rồng !”. Con rồng hoảng hồn bay lên. Nhưng sao bay được, nó càng giãy thì sợi dây niệt trâu càng siết cổ nó lại. Nó lăn lộn, đập đuôi ầm ầm, lôi bụi tre nghiêng ngả.

 

 Con rồng cái đang có chửa. Lúc đó, tui thấy sợi dây giãn ra kêu rắc rắc. Sợ đứt, tui liền nhào lại, nắm đuôi con rồng thọc mác vào bụng nó. Tui quyết lòng hạ nó, để lấy thịt nhậu một lần cho biết mà. Bị đau quá cỡ, nên con rồng nhào một cái thật mạnh, lọt ra bốn cái trứng, và làm đứt luôn sơi dây. Nó lôi tui đi tuốt lên mây. Chóng mặt quá, tui buông tay rớt xuống đất, hai chân lún sâu tới háng.

    Đến chừng nhổ hai chân lên được, tui lết lại chỗ bụi tre, lượm bốn trứng rồng đem vô. Trứng nào trứng nấy lớn bằng trái dừa khô vậy. Chiều bữa đó, tui luộc bốn trứng rồng chín, rồi mới chạy kêu lối xóm mời bà con để mỗi người ăn một miếng cho biết. Trứng rồng ăn có ra gì đâu, nó xảm xịt và hôi mùi tro thấy mồ. Không tin hỏi bả thì biết!

43 – CON KHỈ BIẾT MẦN RUỘNG

    Hồi mới về Lung Tràm khai hoang mần ruộng, vợ chồng tui bắt được con khỉ con. Đem về nhà nuôi được một thời gian, thì thấy nó lớn nhanh lạ thường lại khôn ngoan. Hễ mình làm cái gì mà nó thấy được là kể như không sớm thì muộn nó cũng sẽ làm theo. Chỉ có điều khỉ ở dơ, làm biếng tắm quá mà tui đâm ra không ưa. Bữa nọ, sẵn có khách đến chơi đông, tui bày tiệc mần thịt khỉ để chiêu đãi anh em một bữa.

    Bạn bè cũng xáp vô, mỗi người một việc làm cho mau : đứa thì xắt sả, nạo dừa, đứa chẻ củi, bắc nước sôi... Tới lúc tui đem con khỉ ra chuẩn bị đập đầu, nhúng nước sôi cạo lông thì “sự đời” lại đổi khác: Con khỉ khôn gần như người, chỉ khác là nó không biết nói. Biết mình sắp chết, nó mới gạt nước mắt qua bên, vừa quỳ xuống, chắp hai tay lạy tui ba lạy “tạ từ” và xin được tha mạng sống. Lúc đó, mọi người xung quanh có mặt đầy đủ, ai thấy cũng cảm động. Riêng già Ba Quế thì giật búa trong tay tui lại, nói:

 

    - Thấy tội quá. Thương cho nó quá. Thôi, đừng giết anh Ba à ! Thiếu gì thứ khác để mình ăn !

    Ai cũng can ngăn, mỗi người nói một câu gần giống như nhau, xiêu lòng tui đành hạ tay búa xuống, mở dây trói, thả con khỉ ra. Con khỉ mừng quýnh, chùi nước mắt. Từ đó tới sau, tui cứ mần cái gì là con khỉ để ý cái nấy, làm theo được cả. Giống khỉ học nghề mau thiệt. Rồi tui đi đâu nó cũng lót tót theo sau, và làm như người : Phát đất, cấy, cày, nhổ mạ, vác lúa... Nhờ có nó mà từ đó tui đỡ buồn và cũng đỡ cực. Chẳng hạn như phát đất mần ruộng, hai người phát một công là giỏi rồi, vì đất toàn cỏ sắc lẫn cỏ lùn, bò lút đầu. Còn tui với khỉ thì phát được hai công, mà lại rồi sớm hơn người ta. Khỉ còn hay hơn tui ở chỗ nó mài phảng bén thấy sợ, không ai mài bằng, thành ra con khỉ phát “lát chém”... không, ngoèo cỏ một lần ngập cù nèo. Tui thì quan phát “lát tạ”, nên khó theo kịp nó quá. Với lại lúc mệt, tui hay hút thuốc. Bà con ai cũng nghỉ hút thuốc, còn khỉ nhà tui thì đời nào, Cò một bữa trời mưa lạnh, già Ba Quế thấy vậy, vấn thử điếu thuốc gò, rồi bặp bặp đốt đưa cho nó hút. Con khỉ lắc lắc đầu, xòe bàn tay ra trước mặt ngăn lại. Già Ba Quế “tức” trong bụng lắm, nhưng không sao bỏ thuốc, phát theo nó được. Còn khi khỉ cầm tay cày đất thì hết chỗ nói. Đường cày của nó thẳng băng, đường nào ra đường nấy, thành thử mấy con trâu của tui rất mê. Nhưng có điều này, nhổ mạ thì khỉ bằng tui với già Ba Quế. Bởi lẽ, bàn chân của nó nhỏ thó, đứng dưới đất bùn không vững lắm, nên mỗi lần giơ mạ lên đập thì dễ té ngửa, sình bùn dính đầy đầu cổ, mặt mày. Mạ của khỉ nhổ cũng không được sạch, gốc rễ gần như còn dính nguyên bùn đất. Bởi vậy mà mỗi lần vào mùa, vợ chồng tui rất khó kêu công cấy, ít ai vui vẻ chịu cấy cho tui, dù là giá có mướn cao đến cỡ nào. Mà nếu có chịu cấy đi nữa, bà con cũng phải hỏi gạn là mạ bác nhổ hay khỉ nhổ vậy ?

    Mà nghĩ cho cùng, khỉ hồi đó đâu có đưa tay gãi đầu hay mằn mò, ngoèo móc đít thường như khỉ bây giờ. Cũng tại tui thôi. Lần ấy, tui lấy được ổ ong mật đem về đựng gần đầy một mái mật mà quên đậy nắp. Buổi trưa, con khỉ đi cấy về, mừng quá, nó nhảy tót chuyền lại trên mấy cây xiên nhà rồi trật tay té xuống nằm gọn lỏn trong mái mật ong, làm cho mật dính đầy cả đít khu, đầu cổ. Từ đó, kiến bu vô mình cắn nó hoài không ngớt, làm cho con khỉ phẩi mằn mò từ đầu tóc, đến đít, lâu ngày rồi thành “tật” cho tới bây giờ!

44 – NAI TRẦM THỦY

    Ông Tư ngồi uống trà thư thả ở bộ ghế giữa, bên đàn cháu, rồi bắt đầu kể : “Năm nọ, bác Ba Phi đi rừng, gặp cái bàu lớn. Giữa trưa đang lúc nóng nực, nên bác Ba hăm hở lội ngay xuống tắm.

    Bác cởi áo ra, ngáng lên nhánh chà kề bên mé bàu. Tính bác xưa nay cẩn thận là vậy. Vừa khoát nước kỳ cọ bộ ngực, bác Ba vừa khoan khoái nghĩ thầm : “Chà, không ai sướng bằng ta lúc này. Giữa rừng, ngồi tắm mát một mình mà còn có chỗ máng áo khô sạch nữa. Đã thiệt...”. Bác Ba lại thò tay xuống, lần mở mối lưng, cởi ra thêm chiếc quần đùi. Bác vừa vói tay sang nắm lấy nhánh chà, định máng tiếp cái quần, thì bất ngờ... cái nhánh chà “giật mình” vụt đứng dậy phóng chạy.

    - Ơ... ơ. Nai trầm thủy. Trời ! Nai trầm thủy !

    Sợ mất cái áo, bác Ba quýnh quáng tức tốc đuổi theo con nai :


 

    - Nai ơi... Tao lầm tưởng nhánh chà, mày trả cái áo lại tao. Trả... lại tao !
    Nghe có tiếng người chạy đuổi theo kêu la vang rừng phía sau, con nai càng sải bốn chân phóng hết tốc độ.

    Mệt quá, không còn cách nào khác, bác Ba buộc lòng phải đứng lại, vừa thở hổn hển, vừa chắp hai tay lên miệng làm loa, la lớn :

    - Nai ơi... nai ! Tao nói thiệt, đừng chạy nữa ! Mày không có áo “bận” thì tao tặng cho mày cái áo đó. Còn gói thuốc rê trong túi áo mày nhớ trả lại giùm. Tao ghiền... tội nghiệp tao, nai ơi. Nai ơi !...”.

45 – CÁCH BẮT KỲ ĐÀ SỐNG

    Nên biết giống kỳ đà thích ở trong bọng cây. Hễ động động là chúng chun trốn, có trời mà kéo ra. Bốn chân nó giương móng thật sắc bấu cứng vào bọng cây, nắm đuôi kéo ra chỉ có là đứt ngang mà thôi. Cách duy nhất là muốn bắt được kỳ đà chun trong bọng cây thì phải dần khúc đuôi cho nhừ ra, rồi lấy gừng thật cay đắp vô, chừng đó nó tự nhiên rũ riệt gân cốt, tuột ra thôi.

Vùng này có rất nhiều loại cây lớn mà bọng ruột như cây cuôi, tràm, trâm... kỳ đà về bao nhiêu cũng đủ chỗ để chun trốn. Mấy bạn săn sông Đốc, Đường Ranh thảy đều thúc thủ vô mưu. Riêng tui, đâu có chịu thua một cách dễ dàng. Thấy kỳ đà về mỗi lúc một nhiều, tui đến tận chỗ nghiên cứu mấy ngày nghĩ ra cách bắt chúng.
    Đã nằm được chỗ yếu của nó rồi, tui về làm bẫy cò ke, gài bắt sống độ vài chục con, loại kỳ đà đực, thứ chạy giỏi nhất. Mỗi con, tui buộc vô chót đuôi một củ gừng thật già, rồi cứ thả cho nó về nhập bầy. Chờ lúc chúng kéo nhau ra đi ăn, tui mới dắt chó tràn đến rượt chí tử. Lũ kỳ đà chạy về chỗ trú, chun hết vô bọng cây.

Một bọng cây lớn chúng chun vô đến mấy chục con. Mỗi cây còn có một con ló đuôi ra, vì nó chạy sau chót. Tui sai bầy trẻ bắt ong vò vẽ cho chích vài khúc đuôi của con sau chót ló ra ngoài đó. Con kỳ đà bị ong chích đuôi đau quá, nên cũng nghiến răng chịu đựng. Nó nghiến vào chót đuôi con phía trên. Cứ như vậy, chúng bắt từ dưới nhai đuôi nhau vần công dài lên. Lên tới con trên cùng, con kỳ đà đực mà tui đã buộc đuôi một củ gừng đó. Nó bị bạn nhai vào cái đuôi, rồi nhai tới cục gừng, bị cay quá nên chảy nước miếng ra. Con kế dưới nhấm phải nước miếng cay cũng bắt đầu chảy nước miếng dài như vậy. Nước miếng có chất gừng cay ấy chảy dài xuống, tự thấm vào đuôi chúng và chúng tự rũ riệt gân cốt mà tuột ra khỏi bọng cây. Chùng đó mình mặc sức bẻ móng, rút gân, trói ké chúng chở đem đi bán.

46 – BẮT CÁ KÈO

    - Hồi xưa, bác cũng có đi bắt cá kèo nữa hả, bác Ba ?

    Bác Ba cùng với mấy đứa cháu lối xóm ngồi chuyện trò từ trưa tới giờ dưới gốc bụi tre tàu trước nhà. Gió chướng thổi xạc xào cành lá. Nhìn thấy bác Ba có vẻ mệt mỏi, không muốn kể chuyện thêm nữa, thằng Truyền cắc cớ, kiếm chuyện hỏi thêm.

    - Ừ ! Cá kèo tao bắt dữ lắm. Có hôm lấy ghe mà chở - Bác Ba trả lời.

    - Thiệt vậy hả bác ? Ủa ! Mà hồi đó bác bắt cá kèo ở đâu vậy ?

    Thằng Truyền lại hỏi, vẻ mặt coi bộ nghi ngờ, khó hiểu. Mấy đứa trẻ khác thì mở trừng mắt nhìn theo mấy ngón tay đang múa may như phù phép của bác.

 

- Nè, coi tao bắt đây ! - Bác Ba  đứng dậy trỏ một ngón tay xuống đất - Tụi con nên nhớ vùng biển Đá Bạc của mình hồi đó vô cho tới tận con kinh Lung Tràm này. Cá kèo lội đặc như bánh canh trong nồi. Nhưng ngày xưa mà, đâu có phương tiện gì nhiều để bắt cá kèo như bây giờ. Chủ yếu là bắt bằng tay thôi. Cũng không phải ai cũng bắt bằng tay giỏi như tau. Tụi con coi đây - bác Ba xòe hai bàn tay giơ lên - đơn giản như vầy chớ mỗi lần tao thò tay xuống sông rồi giở tay lên là bắt được mười con, mỗi kẽ tay một con, nằm im không giãy gì được. Cá kèo coi nó trơn lùi vậy chớ không con nào chạy tuột ra khỏi được tay tao đâu.

    Mấy đứa nhỏ ngồi nghe chợt thấm ý, bật cười, cái đầu tụi nó gục gặc. Chỉ riêng thằng Truyền không nói, cũng không cười. Nó ngồi yên, chỉ đưa hai bàn tay ra trước mặt, cái miệng nó lép nhép nói như đếm thầm. Vụt một cái, nó đứng dậy, bước tới, nắm tay áo bác Ba Phi lại, hỏi :

    - Bác mới vừa nói mỗi kẽ tay bác bắt một con. Hai bàn tay có tám kẽ tất cả, vậy làm sao bác bắt được mười con một lần ?!

    Không ngờ thằng nhỏ bất ngờ hỏi “tréo cẳng ngỗng”, bác Ba đớ người một lúc, rồi đưa tay vỗ xuống đầu nó như thể nựng nịu. Bác xuống giọng:

    - Ờ... đúng vậy. Truyền ! Mày hỏi đúng. Thông thường làm gì bắt được một lúc mười cá kèo như vậy. Nhưng vì tay tao bắt cá “dính” quá, nên có số cá kèo nịnh lội tới lội lui, chực sẵn bên ngoài, chờ tao thò bàn tay xuống, mỗi lần như vậy là chúng nó nhào vô hai con một lượt để “dính ké”. Nhờ vậy mà mỗi lần tao giơ tay lên thì được đến 10 con !

47 – BẮT RẮN HỔ

    Hồi ấy, tụi tui đóng quân gần Cơi Năm, nơi bác Ba Phi ở. Thỉnh thoảng, bác vô thăm tụi tui và cung cấp nhu yếu phẩm. Có lúc thì mấy cây thuốc gò, mấy lố ngoại cảm tán, không quên mấy cái lưỡi lam cạo râu. Một lần tụi tui ước :

    - Mùa nắng này, phải chi được một vài con rắn hổ nấu cháo đậu xanh ăn cho mát!

    Nghe vậy, bác Ba quay sang, nói:

    - Cái gì? Tụi bây thèm rắn hổ hả? Tưởng chuyện gì chứ ba cái thứ đó làm gì cho hết. Hồi hổm, tao bắt được, rộng cả chục lu mái dầm chứa nước mưa.

    - Làm sao mà bắt được nhiều vậy bác Ba ?

    - Dễ ẹc ! Tao bắt con cóc, móc lưỡi câu rồi đem nhấp nhấp trước hang. Nghe hơi con cóc là rắn hổ bò ra liền.

    Thấy con cóc, nó chảy chồm chồm, nó táp cái bốp mắc lưỡi câu, thế là cứ bắt ! Thứ đi chĩa, đào hang đó nghe, có tì vết ăn hổng khoái !

    Nghe tụi tui đòi học nghề bắt rắn của bác, bác Ba quay sang, nói :

    - Coi vậy mà bắt kiểu đó đâu có đủ nhậu. Tao còn cách này bắt hết trơn rắn hổ mà khỏe re vậy đó ?

    - Trời ! Tài quá ha ! Ờ, mà cách nào bác Ba ?

    Bác Ba lột cái khăn trên đầu xuống, quấn choàng hầu, rồi thong thả vấn một điếu thuốc gò tổ bố, ý chừng để tụi này tập trung suy nghĩ, rồi mới thong thả kể:

    - Có khó gì đâu. Hôm trước, trời lụt, rắn hổ kéo nhau lên cái gò cao. Trời ơi ! Nó nằm lên nhau chồng đống như rộng trong khạp vậy. Mấy con chuột bò lên là nạp mạng sạch bách cho chúng. Thấy đã quá trời, tao liền về đốn tre, trúc làm cái lọp thiệt bự bằng bốn cái lọp bình thường. Tao bắt mấy con chuột, con cóc bỏ ở sau đuôi lọp, làm mồi nhử, rồi chống xuồng ra gò đặt day miệng ngay chỗ bầy rắn ở. Tao chống xuồng lui ra bờ, ngồi đợi. Nghe hơi mồi, nó ngóc đầu lên, khừ khừ hổng thua cọp gừ. Vậy mà hổng con nào nhào vô hết ráo. Tại sao tụi bây biết không ?

 

    - Sao vậy bác Ba ? Sao vậy ?

    - À, tại tao chưa mở nắp lọp!

    Tụi tui cười cái rần!

    - Lọp có nắp sao bác Ba?

    - Ờ, lọp đâu có nắp, tao quên! À mà nó biết mình gài bẫy, nên nó hổng vô. Chờ hoài thấy hổng chắc ăn, tao tính bỏ về, thì thời may có con rắn nhỏ chắc là đói lắm, bạo dạn bò vô. Thấy con kia vô được không mắc bẫy như hồi trước, nên mấy con sau tiếp tục bò vô đầy lọp. Chờ cho con cuối cùng rúc vô lọp, tao mới giở lọp bỏ xuống xuồng, chống về. Chắc mẩm kỳ này, chở ra chợ Cà Mau bán, mua thuốc gò hút xệ môi. Ai ngờ, một con rắn chừng năm kí lô vậy đó, nó tống sút đít lọp bò ra nhào tới, phóng vô mình tao táp cái bốp, dính cái quần. Hết hồn hết vía, tao chống sào phóng lên bờ. Ai dè dây lưng tuột, con rắn đớp tiêu luôn cái quần của tao.

    Tụi tui ôm nhau bò ra mà cười, cười đến chảy nước mắt. Một lát, có đứa cắc cớ hỏi :

    - Rồi làm sao về nhà, hả bác Ba?

    - Tao theo kinh kéo xuồng về… lạnh muốn teo…

    - Hèn gì, bữa nay bác đem vô cho tụi này có nửa khúc thuốc gò.

48 – BẮT HEO RỪNG

   

 Hồi đó, ở cặp theo phía rừng U Minh này, có làm ruộng nương, rẫy bái gì được đâu ! Heo rừng ngày đêm kéo từng bầy ra phá phách chịu không nổi. Những con heo nọc lớn như con bò, đi ra tới xó, rượt nhảy đực heo nái nuôi trong nhà. Heo đẻ ra con nào mình mẩy cũng dọc dưa, mỏ nhọn thon thon...

    Năm đó, tui có trồng mười công khoai lang với khoai môn. Khoai trúng ơi là trúng. Khoai lang lá mướt rượt như thoa mỡ, đọt bò vượt. Còn khoai môn, tụi con nít ngắt lấy lá lớn thả lật ngửa dưới kinh, làm xuồng bơi qua bơi lại. Vậy mà chỉ trong một đêm thôi, tui mắc công chuyện phải đi ra sông Ông Đốc, mười công khoai lang bị heo ăn sạch bách. Ra thăm rẫy, tui thấy mà buồn ghê. Heo lớn, heo nhỏ gì cũng ủi lút nửa con xuống đất để ăn củ khoai. Tức bụng quá, tui chạy tuốt về nhà mấy cây mác vót ra. Cây mác của tui bén như nước. Tui đi nhè nhẹ, cứa cho mỗi con một mác vào lưng

. Cứa xong, tui vỗ tay nạt lớn : “Heo ! Ôi là trời!”. Bầy heo giật mình nhảy dựng lên, định tốc chạy. Nhưng nào có dễ đâu. Giống heo rừng xương sống ngay đơ như cây đòn gánh, hễ con nào phóng mạnh một cái là sụm xuống ngay.

    Tui kêu bà con chống xuồng ra, chở về xẻ thịt, đem đi bán. Mùa đó, tui bán thịt heo rừng lại lời gấp mấy lần mười công khoai lang chúng ăn.

 

49 – CHIẾC TÀU RÙA

 

    Mùa khô năm đó, túng tiền xài, tui mới nghĩ một cách bắt rùa để chở ra Sông Đốc bán. Ra nhà dượng Tư nó, tui mượn một chiếc ghe cà đom chở chừng năm trăm giạ lúa, chống vô lung Tràm, đậu cặp mé phía dưới gió, cặm sào hai đầu cho thật chắc. Tui còn kéo tấm đòn dày bắc thẳng lên bờ. Làm xong, tui đi vòng phía trên gió, nổi lửa đốt một hàng dài. Mùa khô ở đây, cỏ ngập tới lưng quần, dễ làm mồi cho lửa lắm.

    Lửa bắt đầu bốc ngọn, tui lộn trở về chỗ đậu ghe, ngồi chờ. Độ chừng hút tàn điếu thuốc, tui thấy rùa đã bắt đầu bò xuống lai rai. Lửa phía trên gió bắt vào các bờ sậy, cháy, nổ rốp rốp, chắc còn hơi hướm, nên chúng sắp thành hàng một, nối đuôi nhau bò tới. Con nào cũng nghển cổ lên cao, mắt ngó chừng dáo dác. Một lúc, gió thổi mạnh lên, lửa cháy rào rạt. Lúc này, chúng mới hốt hoảng, túa chạy ngời ngời, không còn trật tự gì nữa.

Rùa vàng, rùa nắp, rùa quạ, rùa hôi, rùa đém... đổ tới từng bầy, rồi cứ theo cây đòn dầy, ùa đại xuống ghe. Giống rùa là chúa sợ khói lửa. Chúng chạy bằng ba chân, còn một chân trước đưa lên che mặt. Con nào cũng chảy nước mắt, nước mũi choàm ngoàm.

    Thấy chúng tràn xuống quá xá, tui ngồi gần đầu cây đòn dài, coi con nào lớn thì cho đi, con nào nhỏ cứ hất mạnh tay một cái là lọt xuống sông. Một hồi, rùa xuống đầy ghe, tui nhổ sào, rút đòn dầy, chống luôn ra chợ. Nhưng khổ nỗi, số rùa nhỏ bị rớt xuống nước cứ bấu theo ghe kết thành bè, một chân chúng vịn vào be ghe, còn ba chân cứ đạp nước, theo trớn ghe đi tới. Chiếc ghe bị rùa đẩy chạy tới ào ào. Tui ngồi phía sau kềm lái, mở gói htuốc ra, vấn một điếu hút phì phèo.

    Ra tới gần chợ sông Ông Đốc, tui bỗng nghe mấy người đàn bà bên kia sông la chói lói :

    - Xuồng chở lúa, khẳm lắm ! Tàu làm ơn tốp lại máy chút nghe !

    Thật hết phương tốp lại, tui chỉ còn biết ngồi lắc đầu chịu chết. Tui khoát tay :

    - Mấy bà con làm ơn nép sát bờ giùm chút đi. Tui tốp máy hổng được, vì đây là chiếc tàu rùa !

 

50 – CÁI TĨN NAM VANG LẺ BẠN

    Mấy chú hỏi tại sao nhà tui có cái tĩn Nam Vang lớn mà tốt vậy à? Cái tĩn màu da lươn bóng ngời, đựng trên một giạ gạo đó. Hồi xưa, nhà tui có chẵn cặp chớ đâu phải cu ki một cái này. Cặp tĩn của ông bà để lại mấy đời. Từ miệt Sa Đéc, vợ chồng tui xuống, chỉ có một cặp tĩn đó với chiếc giỏ mây, đến đây sanh cơ lập nghiệp. Gia sản lưu truyền mà, nhưng đã bị mất đi một cái. Mỗi lần nhớ tới, tui thấy tiếc hùi hụi trong bụng.

    Đó là một buổi chiều, tôi xách cặp tĩn ra lung định múc nước về xài. Ra đến, thấy cá rô phóng như cơm sôi, tui mới nghĩ cách kiếm vài con để chiều ăn. Tôi bẻ một nhánh tràm con làm cần câu, bứt sợi dây bẫy cò của ai đó làm nhợ, rút cây lông nhím trên đầu tóc xuống uốn cong làm lưỡi câu, bắt một mớ cào cào làm mồi. Cá rô vùng đất U Minh này hồi mới khai mở thì khỏi phải nói. Con nào con nấy cân nặng tay, màu da đen bóng, có râu. Vừa bỏ mồi xuống là thấy “chàng y” đớp liền. Nhợ câu bị lôi xiên xiên về phía trên gió. Mình nhóng nhóng thử ngọn cần câu, nghe bên dưới trì trì thì giật lên một cái. Một chú rô mề đỏ đuôi, có hai sợi rây dài thượt, giãy lõm bõm. Cứ vậy mà lôi lên.

    Cái miệng tĩn vòng tròn cỡ hai gang tay, nhưng phải cầm con cá rô ấn mạnh, cái đầu nó mới chụp được vào trong. Tui vừa câu vừa “ấn” một hơi độ nửa tiếng đồng hồ, thì đầy nhóc một tĩn cá. Còn lại một tĩn, tìm một khúc cây làm đòn, gánh về. Đến chừng bắt cá ra làm thịt, bà vợ tui cằn nhằn vì lấy cá ra khó quá.

    Thử hỏi, cá rô mà cầm hai tay ấn mạnh cái đầu nó mới phụp vô miệng tĩn, thì tới chừng bắt ra làm sao lôi ngược nó ra được? Bị vợ cằn nhằn một hồi tui nổi khùng, xách cây đập cái tĩn một phát cho xong. Thế là bây giờ chỉ còn có một cái.

51 – CÁ NUÔI

-       Nè nè ! Anh em đừng chài cá bổi: Cá bổi ăn không được đâu ! Anh em bộ đội thì tui thương lắm, mới nói cho mà biết vậy đó. Cá bổi (sặc rằn) tui nuôi trong vuông đất này là loại đặc biệt, chớ không phải loại thường nuôi để bán đâu. Chú em mày cất chài đi. Cá bổi phệt của qua coi lớn bằng cái quạt mo vậy, chớ thịt ăn chát ngầm. Thôi, vô nhà biểu mấy đứa nhỏ lấy vài cần câu cá rô với một cần câu cá lóc ra đây. Đứa bắt cào cào, đứa bắt nhái nhót mà câu, mà nhắp một hồi ăn chết mệt không hết. Mấy con cá bổi phệt lỡ chài lên được đó, thả xuống đìa lại đi. Thứ cá rô mề của qua, hai đứa câu một lát có mà khiêng, chớ quân ngũ nào ăn cho hết. Con nào con ấy bằng bàn tay xòe, da đen trạy, trứng óc nóc, đuôi đỏ chót, mỡ cứng như mỡ rùa vậy

-      Còn nói chi đến thứ cá lóc kềnh của qua nuôi. Con nào mà không mọc hai sợi râu dài cỡ lóng tay sắp lên. Chú em mày thử nhắp lên vài con cá lóc thì biết. Tụi nhỏ xóm này thường lấy vảy cá lóc của qua làm đồng xu để đánh đáo đó

-     Vì cá của qua có cho ăn mồi đàng hoàng mà. Loại nào cho mồi nấy. Chú em mày trông thấy đó, vườn của qua trồng rặt có ba thứ cây: xoài, cau với dừa. Suốt năm, cây sai oằn cứ để cho trái rụng xuống cho cá ăn. Cá bổi thì ăn cau tầm vu nên thịt nó chát ngầm. Cá rô thì ăn xoài, bởi vậy cá rô nấu canh chua không cần bỏ me, dằm me gì đâu. Nè ! Ráng nhắp ít con cá lóc mang về tối nấu cháo ăn tẩm bổ nghe. Cả vườn dừa của qua vậy đó, dừa khô cứ rụng xuống mương, rụng bao nhiêu thì cá lóc táp ăn hết trọi. Bởi vậy thịt cá lóc nấu cháo khỏi phải vắt nước cốt dừa mà ăn cũng béo ngậy.

52 – THU HOẶCH LƯỠI NAI

           Năm ấy, mấy chục công lúa tui đang cấy cặp mé rừng, tới mùa không còn thu hoạch được một hột để nhổ râu. Lúc lúa đứng cái, lũ nai kéo về cả bấy ăn tới tới. Cất chòi giữ ngày giữ đêm, tốn mấy chục cái bồ cạp bằng thùng thiếc, mà bọn nai bầy vẫn trơ trơ không sợ. Đánh bẫy, giăng giò bắt được một, thì chúng kéo lại hai, ba. Nai chà tràn vô xóm rượt chém bò cổ, nhảy đực bò cái, đẻ ra con nào cái sừng cũng có nhánh có nhóc.

           Ai cũng bảo là chắc phải để xứ này cho nai ở. Tui nhất định không chịu thua, cố tìm hết cách để trị lũ nai này. Đêm đêm, tui đi rình xem cách chúng ăn lúa. Nó ăn cũng như trâu bò ăn vậy thôi. Nghĩa là lưỡi cũng le ra, ngoéo gọn bụi lúa rồi giựt mạnh lên.

           Tui về nhà, ngồi suy nghĩ, nhủ thầm : “Như vậy là chết cha chúng mày rồi” ! Xách mác ra vườn, tui đốn những cây tre lồ ô mang vô. Tui lần lượt bập nhè nhẹ lưỡi mác vào cật cây tre, rồi lấy ra một miếng cật tre dài cỡ chiếc đũa bếp, hai bề cạnh bén như dao lam. Làm tới chiều, tui vác ra ruộng, mỗi bụi lúa tui cắm vào một miếng cật tre cho thật chắc. Xong xuôi tui về nhà biểu mấy đứa nhỏ cứ việc chỏng cẳng mà ngủ cho thẳng giấc đi, đừng lo canh tuần gì nữa.

           Rạng sáng bữa sau, tui chống chiếc xuồng be ra ruộng. Tui xăn quần lội xuống, tay nắm be xuồng dắt tới, tay mò theo từng gốc lúa mà lượm lưỡi nai. Cái thứ tre lồ ô mỏng te, cật bén như nước. Vô phúc cho con nai nào nhè ngoéo cái lưỡi vô đó mà giật lên thì thế nào cũng phải đứt lưỡi ra.


    Mùa đó, ngoài cái chuyện bán thịt lưỡi nai tươi cho bà con lối xóm nhậu chơi, tui còn phơi khô chở lên Sài Gòn bán cho mấy chú Chệt để xuất khẩu sang Hồng Kông, Tân Gia Ba được một tấn hai lưỡi nai khô. Hổng tin hỏi bả thì biết./.

 

 

53 - ẾCH ĐỜN VỌNG CỔ

    Tui có bầy vịt, hễ bum búp lông cánh là lần lượt mất sạch trơn. Tức quá, rình mò mấy bữa, tui mới biết là bị ếch ăn. Chỗ đuôi đìa, dưới gốc bụi tre có một hang ếch lớn quá cỡ.

    “Ăn thịt vịt tao thì mầy phải đền mạng”. Nghĩ vậy, tui mới lấy sợi dây thép quai thùng dầu hôi uốn thành một lưỡi câu, lấy sáu sợi dây chì bện lại làm nhợ, một đầu buộc con vịt xiêm vừa ra ràng, một đầu buộc vào bụi tre.
 

   

 

 Mặt trời lên độ một con sào. Tui ngồi rình, thấy một con ếch bà từ trong gốc tre lù lù lội ra. Con ếch thấy con vịt, men lại ngửi ngửi rồi lắc đầu, bỏ đi. Biết nó chê con vịt này còn hôi lông nên chưa chịu ăn. Bữa sau, tui đổi một con vịt mái đang đẻ, mập sà đít. Hừng sáng là tui cũng đến chỗ hôm qua ngồi rình.

    Cũng đến lúc mặt trời lên độ một con sào, con ếch bà đó lại cũng vạch bèo lội ra. Trông thấy con vịt ta mập ú, nó ngó dáo dác, mặt mày hớn hở, gật gật đầu mấy cái. Con ếcn khỏa bèo, hớp nước súc miệng sào sạo, phun ra cái phèo, rồi chồm tới bên con vịt. Nó nhướng mắt, táp bụp rồi nhai rau ráu, nuốt một cái ực. Như vướng phải lưỡi câu, nó nhợn trở ra. Thấy tình thế không xong, tui vụt đứng dậy, la “ếch” một tiếng. Con ếch giật mình nhào ngang, bị lưỡi câu xóc hàm hạ, nó giãy đùng đùng, sáu sợi nhợ câu thẳng băng. Nó lúc lắc cái đầu, sáu sợi dây chì rẽ quạt ra. Hai tay nó quào lia lịa. Sáu sợi dây bật ra những tiếng kêu bổng trầm “tằng tăng, tủng tẳng” khác nhau. Tui ngồi nghe. Sao có chỗ vô sang, ra hò muồi quá ! Một hồi phát ngứa miệng, tui ứng thanh nghe, ca bậy sáu câu vọng cổ chơi...

 

 

54 – CÂU CÁ SẤU

   Một lần, có người khách mới tới U Minh, hỏi bác Ba :
    - Xứ mình chắc nhiều sấu lắm phải không bác Ba ?

    Ổng trả lời :
    - Ôi ! Sấu ở đây khi trời nắng, chúng lên nằm hai bên bờ sông như củi lụt.

    Người khách liền hỏi :
    - Vậy làm sao mà bắt được nó ?

    Bác Ba Phi đáp :
 

    - Khó gì đâu, câu bắt nó thôi. Bửa hổm, tui và bả đi câu. Tui làm một cái doi thiệt bự, rồi hai vợ chồng chèo thuyền đi. Tới sông Quảng Phú, gặp một con cá sấu lớn. Nó mắc lưỡi câu, hai sợi doi nổi ở một khúc eo sông. Tui thử kéo lên. Chà ! Một con cá sấu thiệt lớn. Tui quấn sợi doi trước mũi thuyền. Thế là sấu chạy, kéo luôn cả thuyền. Tui vội la bả: “Bà cầm lái cho ngay kẻo chìm !”. Con cá sấu kéo thuyền của vợ chồng tui từ sông Quảng Phú tới vàm Cái Đôi mới bắt được nó.

    Người khách lại hỏi :
    - Thế thì làm sao đi ngang đập Cây Dừa ?Bác Ba Phi thản nhiên :

    - Thì nó kéo thuyền qua đập luôn chớ sao !

 

 

55 – CHÀ GẠC BẰNG NAI

    Tui nuôi có một con trăn gấm, cũng không còn nhớ là được mấy năm. Nó lớn quá cỡ, lớn đến nỗi mình kiếm đồ ăn cho nó không xuể. Mỗi thnág tui cứ thả cho nó ra rừng tự kiếm ăn một lần. Có lần vài ngày, có lần cả tuần lễ nó mới về. Nó ăn nào là chồn đèn, chuột cống, cúm núm, trích cồ...

    Có một lần, cũng như thường lệ, bầy trẻ cho nó ra rừng kiếm ăn. Nó đi hai bữa... rồi ba bữa, cũng chưa thấy về. Rốt lại mười bữa rồi mất tiêu luôn. Bầy trẻ tủa ra quần kiếm, cũng không gặp. Chắc là nó về lại rừng. “Lá rụng về cội” thôi. Loài thú rừng mà... Cả nhà ai cũng tiếc con trăn gấm, nhưng ngày qua ngày, rồi cũng lãng quên.

    Vào độ nửa tháng Chạp năm đó, nghe tu hú kêu ngoài bụi tre, thấy gió chướng vờn trên lá cây, tui nhớ ra đã gần ngày Tết

. Vợ chồng con cái tui vác phảng, ôm lưới, lội ra cái đìa mé rừng mà chụp cá. Cái đìa mới đào hồi mùa hạn, chưa kịp cắm chà gộng gì cả. Nhưng dù sao cũng có cả đủ ăn Tết. Nhờ cái nó nhẹ dọn cỏ và khỏi nhổ chà.

    Cha con tui bỏ lưới trên bờ, dùng phảng rong mé cỏ. Một chuyện lạ đời là mỗi nhát chém xuống, phảng nào cũng trúng nhằm chà nghe rốp rốp.

    - Ai lén cắm chà đìa của mình vậy kìa ? Tui tự hỏi, rồi cố dọn cỏ cho nó xong. Mấy cây phảng giở lên coi, cây nào cũng mẻ sếu sáo như lưỡi cưa hết thảy.

    Đến khi cỏ được kéo cả lên bờ, tui lại thấy dưới đìa đầy chà gộng ló lên mặt nước. Kỳ lạ là toàn chà cùi, không có nhánh nhóc gì hết. Chà bắt đầu xạo xự mạnh lên như có ai lặn ở phía dưới, rồi cầm mà rung. Một lúc sau, toàn bộ chà phía dưới đìa kéo hết lên bờ. Chừng đó cha con tui mới bật ngửa. Té ra con trăn của nhà mình lâu nay nó ra rừng ăn phải bầy nai chà, nên chà gạc nai đâm lủng lưng, trổ lên phía trên. Có lẽ vì bị đau quá, nên nó còn nằm đấy dưỡng bịnh, chưa chịu về chuồng.

56 – CÂY MẬN BIẾT ĐI

    Thu hoạch mùa màng xong, rảnh rỗi là cứ nằm ngửa ra nằm gác giò giàn bếp mà ngủ nghỉ. Nghỉ ngơi riết rồi cũng đâm ra chán, tui móc đất vò bậy vài chục viên đạn bắn ná thun chơi, rồi thả rề rề ra hậu đất. Mọi khi ở con bờ này vào những buổi trưa, trích cồ về đậu nghỉ mát nơi ngọn cây đen kịt. Vậy mà bữa nay im lìm, vắng hoe. Đi vòng vòng một hồi, tui thấy buồn, bắn bậy ba con chim sâu một hồi hết sạch mấy chục viên đạn. Nghe khát nước, tui rề lại cây mận chỗ góc bờ để bẻ vài trái mận ăn chơi. Đến nơi, thấy cây mận trái sai, chùm nào chùm nấy oằn xuống như buồng dừa nước. Cái thứ mận này coi trái bóng lưỡng vậy chớ bên trong hột lớn.

    Tui leo lên cây mận, nằm ngửa chỗ cháng ba, bẻ từng trái nhấm nháp. Tàng cây mát như che dù, lại có gió thổi hiu hiu, tôi nghe lòng thơi thới làm sao. Cộng thêm mấy con chi chìa vôi “kéo đờn vi-ô-lông”, đâm hứng chí, tui nói lối rao ra giọng Nam Xuân một hồi, rồi vô muồi sáu câu vọng cổ. Đôi mắt lim dim mơ màng, tui đưa giọng ca trầm bổng theo làn gió rì rào qua đọt cây. Các loài chim nghe tui ca, bu quanh, nhảy nhót, hót theo ríu rít. Đến chỗ xuống muồi, tui búng song loan cái tróc, bỗng nghe tiếng động rột rẹt.

Mở mắt ra, tui vụt thấy một con nai chà cũng đang đứng gần bên thưởng thức giọng ca của tui. Thấy con nai chờn vờn sắp chạy, tui lật đật bẻ một trái mận bóc lấy hột, nạp vô ná thun bắn vào mặt nó một phát. Hột mận xuyên lủng vào mắt con nai. Nó đau quá, la lên “bét bét” rồi tốc chạy vào rừng.

            Câu chuyện con nai đó lâu ngày, tui đã quên mất. Đến ba năm sau, nào ngờ một bữa, tui đi gặt lúa ở miếng đất cặp mé rừng, thì được tái diễn lại. Số là vào lúc nắng trưa gay gắt, tui máng vòng hái lên cùi chỏ tay, đi lại bờ để tìm một bóng cây đụt mát. Hai mắt đã tá hỏa, nên tui tấp đại vào một tàng cây gần nhất mà ngồi dựa lưng. Hết cơn mệt, tui nhìn kỹ lại, cây ấy là một cây mận. Ôi, nó đang sai oằn những trái ! “Buồn ngủ lại gặp chiếu manh”, tui với tay, bẻ vài trái mận ăn thử. Mận này cũng khá ngọt, nhưng sao lại có mùi hơi tanh tanh.

            Tui vói bẻ một trái nữa. Nào ngờ cây mận vụt nhích đi chỗ khác và kêu lên một tiếng “bét”. Tui giật mình, đứng dậy. Ối trời ơi ! Cây mận vụt tốc chạy ào ào vào phía rừng !

             Lấy làm lạ, tui đuổi theo xem thử. Chẳng ngờ, tui càng rượt theo, cây mận càng chạy nhanh hơn, để lại đằng sau những tiếng kêu “bét, bét”. Bà con biết gì hông ? Cây mận mọc trên đầu con nai.

 

57 – MÔ ĐẤT BIẾT ĐI

    Đang mùa phát đất mà nước đầy ắp cánh đồng. Cái năm gì thiệt là kỳ cục ! Nước sông Đốc màu ngà ngà dâng lên, nước U Minh đen cuộn tràn xuống. Gió Nam thổi hù hù. Trên ruộng mà sóng bủa ba đào. Chuột bọ, rắn rít hết chỗ dựa, trôi tấp vào các ngọn cây, đeo có đùm. Nước U Minh đỏ thẫm như nước trà, chảy ngập tới đâu, thì cây cỏ èo ọp tới đò. Lợi dụng lúc này phát đất là tốt nhất.

    Bữa đó, tui vác phảng ra đồng như thường lệ. Nghĩa là nghe cúm núm kêu chừng hết canh tư, thì tui đã có mặt ngoài ruộng. Đồng nước mênh mông ngập tới ba đì, lạnh run lên, không tìm được một mô đất mà để viên đá mài phẳng. Tui lội vòng vo cho tới hừng đông, may thay gặp được một mô đất thật cứng, cao hơn mực nước độ hai gang tay. Tui rề lại, để viên đá mài lên, ngồi mài phảng. Mài “nước lớn”, tui lại mài “nước ngọt” rồi liếc mép. Xong đâu đó, tui còn mở gói thuốc giồng ra vấn một điếu hút phì phèo.

 

   Đến khi trời sáng rõ mặt, tui trực nhìn lên :

    - Ủa ! Ở đâu mà vườn tược rậm rạp, trông lạ quá vậy kìa ? Quái lạ ! Tại sao lại ở ngay nhà mình ?

    Rõ ràng, bên tay phải tui là cái chuồng trâu, tay trái chuồng heo, chính giữa có bếp nấu cơm. Bà vợ tui đang lom khom chụm bếp. Thiệt là như một cảnh chiêm bao, tôi không tài nào hiểu được.

    Cuối cùng, vợ tui bước ra, ngẩng lên, vụt la chói lói :

    - Bớ người ta ơi ! Làm ơn cứu chồng tui với !

    Tui bật cười :

    - Bộ bà điên hả ?

    Bả đứng nhìn tui mà mặt mày tái mét, đưa tay ngoắc :

    - Ông ơi ! Ông phóng xuống, chạy lai đây, mau đi !

    Tui cười hề hề, thủng thỉnh bịt khăn đầu rìu qua trán, lấy cục đá mài, vác phảng lên, bước xuống khỏi mô đất, đi lại bên vợ tui.

    Bả nắm vai tui, xoay ngược lại :

    - Ông ngó trở lại coi, kìa !

    Tui nhìn lại cái mô đất mình vừa mới bước xuống. Úy trời đất, thánh thần, thổ võ ơi ! Con rùa ! Con rùa vàng lớn quá trời. Té ra tui ngồi mài phảng trên lưng nó hồi hôm tới giờ mà không hay.

58 – CON TRĂN RỒNG

    Mùa nước năm đó, có một đêm trời mưa bão làm đổ ổ quạ ngoài cây tràm. Lũ cò, diệc bị gió đánh rơi lướt khướt, rã cánh té đầy đường. Ở những lùm cây rậm, loài dơi, quạ đeo thành đùm bằng cái thùng thiếc, sát vào các nhánh cây. Rừng tràm U Minh đêm đó nổi sóng ì ùm không thua gì sóng biển. Vợ chồng con cái tui ngủ trên túp chòi có sàn gác, bị giông đẩy đưa tựa ngư ngồi xuồng nan trên biển.

    Độ nửa đêm, tui nghe bên dưới sàn gác có tiếng động ở gần những bụi chung quanh. Chuyện đó thì cũng chẳng có gì lạ. Thường những đêm mưa giông như vậy, lũ thú rừng bị ướt ổ, đâm ra quạu, cắn lộn với nhau kêu ầm lên.

    Đến sáng tỏ mặt, dượng Tư nó từ đàng nhà mang một cái giỏ trên vai đi lượm cò rớt, dài dài lại nhà tui. Tui thì còn ngồi co ro trên sàn gác, chưa chịu dậy. Đang ngồi bập bập điếu thuốc, tui bỗng nghe dượng Tư nó la bài hãi bên dưới :

    - Trời đất quỷ thần ơi ! Cái con gì dị hợm kỳ đời, anh Ba ơi !

 

Tui lật đật vớ cây mác thong, tuột xuống thang gác, chạy tới xem. Là tay thợ rừng đã từng sành sỏi, nhìn con vật đó, tui cũng phải bí lù, không thể hiểu nổi là giống vật gì. Cái mình là mình con trăn, nhưng trăn sao đầu lại có sừng ? Cái đầu là đầu con rồng, nhưng tại sao rồng gì lại không chân mà tiếng kêu nghe “bét bét” ?

    Con vật bắt đầu bò đi. Mình nó láng ngời, suôn óng, đầu có sừng chà chôm, cổ nghển lên, miệng cứ kêu “bét bét”. Tui đặt tên đại cho nó là “con trăn rồng”. Nhưng dượng Tư nó không chịu, dượng bảo là con trăn gấm vừa nuốt một con nai, đầu nai còn ló ra ngoài, nên nhìn thấy nó lạ lùng như vậy.

    Con trăn rồng ấy cừ bò tới, nghển cổ, quơ sừng kêu “bét bét”.

59 – DẦU MỠ RẮN

   

Mấy chú coi kỹ lại đi, có phải là dầu hôi đâu ? Dầu mỡ rắn đó đa ! Hồi nẳm tới giờ, tui lấy về chứa để thắp đèn măng xông, đèn tọa đăng, đèn ống khói, đèn con cóc, đèn khí đá… Ủa quên, đèn khí đá thì không phải, tôi thắp toàn bằng dầu mỡ rắn.

 

    Số là, vào mùa nước chum năm đó, tui chống xuồng chở bầy chó đi săn. Con chó cái Nô của tui với tám con, con của nó đã phát thịt nên rất hăng. Lũ chó ngồi trước mũi xuồng, còn tui đứng chống phía sau, cây mác thong để cặp bên chân. Vô rừng sâu một đỗi, chín con chó bắt hơi htịt, ngoắc đuôi, tai đảo tới, mũi khịt khịt. Rồi cả bầy phóng lên bờ, đuổi ào ào vào rừng.

 

 

           Nhưng chỉ lát sau, bầy chó chạy bò càn trở lại, la oẳng oẳng, vãi cứt, vãi đái... Tui nghe cây rừng bị quật ào ào, gãy rốp rốp như một cơn bão lùa tới. Trực nhìn lên, tui thấy một con rắn hổ mây lớn thôi là lớn, nó đang rượt đuổi, toan nuốt trọn bầy chó. Tui vội chụp cây mác, định nhảy lên cứu bầy chó, nhưng không kịp nữa. Con rắn đã nuốt sạch hết chín con chó, và nó đang lé mắt nhìn tui, đầu nghểnh lên cao hơn đọt cây, hai hàm răng chơm chởm, trệu qua trệu lại. Con rắn nhìn tui, nháy nháy cặp mắt hình như nó muốn mỉm cười. Hoảng quá, tui vội chụp cái bao bố tời để gần bên đội lên đầu. Con rắn phóng tới, tui trịch ngang. Nó mổ xuống, ngoạm nhằm cái bao, nhai nhai. Lợi dụng lúc con rắn còn lo rẩy cho cái bao văng ra khỏi miệng, tui liền nhanh tay úp chiếc xuồng lại, nằm gọn bên trong. Tui liền dựng đứng cây mác thong lên, thủ thế. Tui nghe chiếc xuồng rung lên bần bật và chuyển mình lún dần xuống. Chiếc xuồng lún mạnh xuống, mũi mác đâm thấu đáy sông trổ lên trên. Bỗng nghe một tiếng “re... rẹt”, chiếc xuồng liền phình lên. Biết là con rắn đã bò qua khỏi, tui chun ra, lật ngửa chiếc xuồng lại. Nghe bầy chó kêu hực hực, ngó lại, tui thấy còn đủ chín con, nhưng mình mẩy chúng dính đầy nhớt nhao, bọt bèo. Và trên mặt nước, thứ gì trắng trắng nổi lều bều như xăng đặc. Nhìn xa đằng kia, tui thấy con rắn bò đi, cái đầu lắc la lắc lư. Như vậy là lúc mũi mác của tui đâm lủng đáy xuồng thì cũng là lúc con rắn bò ngang, nên bụng nó bị mũi mác rạch cho đổ mỡ, và tuôn ra như vậy. Tui vội vã kêu bả mang thùng và lu ra vớt hết số mỡ rắn nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Không kể phần cho hàng xóm, tui thắng mỡ ấy để dành thắp đèn suốt mấy năm mới hết.
 

60 – SÂN QUạ

    Ở Phong Lưu, Canh Đền có một sân chim, mỗi lần người ta bắt hàng vạn con còng cọc, cò long bong, cò quắm, vạc, diệc mốc chở ra chợ bán. Phía sau vạt đất tui thì lại có “sân quạ”, chuyện mới lạ đời !

    Số là mùa hạ năm đó, nắng khô hết đìa bàu, ao vũng xứ này. Trâu bò phải đi kiếm nước uống ở những cái giếng giữa đồng xa.

    Tui có bầy trâu tất cả là tám con. Nhưng chiều bữa đó, chúng đi về lại lạc mất con đực pháo. Sau mấy tháng lăng xăng chạy kiếm đủ chỗ, tui mới gặp nó đứng chổng khu uống nước ở một cái giếng trong đầu ngàn hậu đất.

     Gần đi tới, tui thấy con đực pháo đang rùng mình lúc lắc, mặc dù bốn cái chân của nó còn lún sâu dưới thềm đìa.

Tới thêm chút nữa, tui thấy con trâu như nghe được tiếng động, nó cựa mình vùng lên. Gần lại nữa, tui thấy nó run run, giật giật. Lấy làm lạ, tui lại gần xem. Con trâu làm như hoảng hồn, lúc lắc nhổ bốn cái chân lên, nhưng bốn chân nó ngay đơ, không thấy nhúc nhích gì hết trơn. Con trâu lại cất tiếng kêu “ọa ọa”, rồi nó trân mình đứng dựng tại chỗ, run rẩy. Thấy đít con trâu lủng một lổ, tôi vội quơ nùi rơm nhét lại rồi đưa tay với lấy sợi dây định dẫn nó về. Nhưng con trâu cứ giẫy giụa mà đứng tại chỗ. Cuối cùng tôi phải về, kêu bà nhà ra lôi tiếp con trâu về nhà.

    Sau đó, tui với bà nhà mài dao xẻ con trâu. Nào ngờ phèo phổi, ruột gan, thịt thà bên trong con trâu đều bị lũ quạ khoét đít chui vô hồi nào mà ăn sạch trọi. Tui với bả bắt ra được hai trăm hai mươi sáu con quạ vừa lớn vừa nhỏ. Không tin thì hỏi bả thử coi !

61 – RẮN HỔ MÂY TÁT CÁ

    Hồi xửa hồi xưa, khi mới tới đất này khai phá, rắn trong rừng U Minh con nào, con nấy lớn lắm. Mới đầu, người ta kể, tui chưa tin. Nhưng rồi có một bữa, tui cùng bà xã vô rừng, tính kiếm cái đìa nào lớn, nước cạn, tát bắt ít cá về ăn.
Tui với bả tới ven rừng, nghe như có tiếng ai đang tát nước từ xa vọng lại. Chả là trong rừng có một cái đìa bề ngang chừng năm thước, bề dài chừng hơn bốn mươi thước, tui đã nhắm chừng từ bữa hổm. Tiếc thiệt, bấy giờ mới tới ven rừng đã có người tát rồi.
    - “Ai đó mà lẹ vậy !” - Tôi nói với bả như vậy.

    Nhưng rồi cả hai người vẫn lẹ làng đi tới. Đứng ở mé bờ đìa bên này, núp sau một thân cây tràm bự chảng, tui thấy một con rắn hổ mây ở mé đìa bên kia. Cái đuôi nó ngoéo một đầu, các đầu nó ngoéo một bên, thân hình nó dẹp lại đu đưa. Thì ra nó đang tát nước cho cạn để bắt cá ăn. Tui bấm tay bả một cái đau điếng, ra hiệu đứng yên, để coi con rắn hổ mây này làm gì.

 

 

Gần xế bóng mặt trời, cái đìa đã cạn, những con cá rô, cá trê đen thùi quẫy đành đạch trên bùn. Bả thích quá, kêu trời một tiếng. Thấy động, con rắn vội bỏ chạy vô rừng. Tui chỉ việc bảo bả về kêu bà con ấp xóm ra bắt mang về. Hổng tin, mọi người cứ hỏi bả thì rõ./.

 

 

62 – ÔM CỔ RẮN
 

Mùa hạn năm đó, tui đi ăn ong mật sâu trong rừng U Minh. Đến trưa, ngồi dựa lưng vào gốc cây tràm nghỉ mát, tui móc gói thuốc ra ngồi hút. Thấy đằng kia, cách chừng ba công bề đứng, có một cây móp hay cây gì đó chết khô, cành lá rụng rơi đâu hết, chỉ còn lại thân cây trơ trọi. Cây khô này cao hơn các cây xung quanh. Gốc ngọn nó nứt nẻ, thẳng băng, da đen hơi mốc, trên có cái cháng hai. Một điều kỳ lạ là mỗi khi có con chim nào đậu lên cháng hai đó liền bị mất hút, không thấy bay ra.

Tui cũng không để ý, cứ quảy gùi, xách mác đi ăn. Đến xế qua, mật ong đã đầy gùi, tui định về, bỗng nghe có tiếng lửa cháy ào ào từ phía trên gió. Rừng U Minh này bị lửa cháy vào mùa hạn thì ngọn lửa bốc cao ngất trời, táp tới ầm ầm, như một trận bão. Đi rừng mà gặp lửa cháy thì phải mau mau đào đất trấp, chui xuống dưới hoặc trèo lên những cây thật cao, chờ lửa cháy ào qua chớ không phương nào chạy kịp. Lúc đó tui đào đất trấp chui không kịp, phải chạy tìm cây cao mà leo. Tui chạy đến, quăng bỏ gùi mật ong, bỏ cây mác còn lại và tìm được một cây. Tui ôm cây, trèo lên tuột xuống. Cái cây gì mà trơn chuồi, thót lên ba phóng thì bị tuột trở xuống hết hai. Nhưng lửa cháy đã tới gần, tui phải cố trèo. Trèo lên vừa tới chỗ cháng hai thì lửa cũng vừa cháy tới, nhưng chổ cháng hai cái cây sao có nhiều mảnh dầm lười xười tách ra đâm tay tôi đau quá. Mặc dù mỏi run tay nhưng ngó xuống thấy lửa đã cháy tới phía dưới, tui lấy làm khoái chí.

Lửa cháy qua rồi, tui định tụt xuống, nhưng sao nghe cái cây động đậy. Rồi ngay chổ cháng hai lại mọc ra nhánh chà cây quơ qua quơ lại, cào cào vào đầu tui. Tui thụt xuống chút nữa. Cái cây kia cứ ngoéo xuống quét vào đầu tui, vào cổ tui. Nó còn trây vào mình tui một thứ gì nhớt nhợt như nước miếng. Trời đất! Chổ cháng hai lại có hai cái mu lồi ra láng bóng và rực sáng như đèn xe hơi. Trời! Khi không hai cây khép lại, mở ra nghe bầm bập... Hồn vía lên mây, tay chân rũ liệt, tui ngã người ra, sút tay rớt luôn xuống đất. Hai lỗ tai nghe vo vo, mắt nhắm híp lại, phú mặc số mạng cho trời đất.

Khi rớt xuống tới đất, tui thấy mình nằm y chổ ngồi hút thuốc hôm qua. "Cái cây" đằng kia bắt đầu bò đi, le lưỡi, thổi hơi phèo phèo.

 

63 – RỪNG U MINH THỬO TRƯỚC

Người ta nói ở Cạnh Đề: "Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh", chớ vùng này, những năm đầu mới khai rừng thì người ta hay hát đưa em như vầy: " Ở đâu bằng xứ Lung Tràm, chim kêu như hát bội, cá lội vàng như mắm nêm".

Mỗi buổi sáng, giấc hừng đông, lúc đài Hà Nội báo thức thì lũ giang sen, chàng bè, gà dãy, lông ô, khoan cổ, chàng bè... ra tập "thể dục" rần rần. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng sau chẳng khác nào cuộc duyệt quân, thiên binh vạn mã. Loại trích cồ tuy nhỏ con nhưng làm "thầu hồ" nháy nháy cặp mắt màu ve chai, niểng cái đầu có mồng đỏ chót, là "tò le tét le". Vợ chồng nhà quạ nghe vậy, từ trong cũng vội vã bay ra "dạ" rân. Đám vạc ăn đêm về ngủ nướng ở những bụi rậm, giật mình thức giấc, "nhảy mũi" hạt hạt. Trong vườn "đội nhạc công" chìa vôi thổi gió véo von. Dòng họ nhà chim bắt muỗi cũng gõ đầu hòa tấu "toang toang". Đấy chú cưỡng bông đậu chót vót trên cành cao lé mắt "thổi kèn Tây"; chị em tu hú thấy hừng đông, chạnh lòng nhớ quê cất tiếng kêu não nuột. Ngoài mé ruộng nhà, anh chàng nghịch dầm mưa long óc mấy ngày cứ gù lưng "nhảy mũi khìn khịt". Tội nghiệp cho bác mỏ nhác, ăn chi mà đau bụng rên "tằng yết, tằng yết" sáng đêm. Trời vừa tảng sáng, cậu rắn hổ đất đã thổi bể phù phù cho anh chim trảo chẹt "rèn" những cây phản gỗ nghe choảng choảng...

Ở ven rừng U Minh thưở ấy, vào những buổi sáng thật vui vẽ rộn rã làm sao! Ai đi làm đồng trước đó cũng phải nán lại ít nhất ít phút để nghe bản "nhạc rừng hòa tấu".

Lũ chim chóc ngày đó dạn khì, chúng sống lẫn lộn với bầy gia súc. Chàng bè rề rề theo đổ trống vịt xiêm, vịt đẻ... khi trứng nở ra con nào con nấy cái mỏ nhọn thon như mũi kéo. Vịt ta đi đạp mái giang sen, làm con cái giang sen chân lùn tịt, con nào cũng có giọng kêu "cạp cạp". Lạ đời nhất là loại cúm núm, chúng sống chung lộn với gà nhà, lâu ngày cúm núm ngoài đồng, con trống nào cũng có hai cái cựa nhọn lểu. Còn gà trống trong nhà thì đêm đêm cất tiếng gáy vang : "Ò ó o... cúm ! Ò ó o... cúm!".

 

64 – GÀI BẪY BẮT CHIM

Cánh đồng Kinh ngang này vào mùa nước ngọt, các thứ chim lớn như gà dãy, giang sen, chàng bè, lông ô, khoang cổ, diệc mốc từ trong rừng U Minh lũ lượt kéo ra kiếm ăn. Chúng quần đảo mát trời, giậm nhẹp những đồng lúa sạch trọi.

Tất cả các loại chim đó chỉ có giang sen với khoang cổ là thịt ăn có lý, còn phần lớn ăn xảm xì như trứng rồng. Nói thì nói vậy chứ dù ngon hay dở mình cũng phải gài bắt cho ráo đợt để đem ra chợ bán, kẻo chúng phá lúa chịu không thấu.

Cái đám thằng Cường, thằng Thọ gài bẫy đạp, bẫy cò ke, bẫy mổ chỉ bắt trầm kha mỗi ngày vài chục con, có thấm bổ gì. Tui nghĩ ra một cách gài khác tụi nó. Bữa đó tui bỏ một ấm trúm xuống xuồng chống vô rừng đặt lươn. Đem về, tui lựa rặc thứ lươn da vàng, đầu nhọn, loại này mạnh lắm. Tui lấy chỉ ni-long thật chắc cắt ra một sợi dài chừng hai tầm đất, một cầu khúc cây ngáng ngang, một đầu tui cột ngay vào chỗ rún con lươn. Làm xong, tui ôm ra bẫy ruộng thả hai con lươn thành một cặp gần nhau.

Sáng ngày hôm sau, tôi bò ra ruộng rình xem. Ban đầu có một con gà dãy đi lọm khọm tới bên con lươn vừa trông thấy rồi đứng khựng lại, ngóng cổ, liếc mắt nhìn. Thấy con lươn bò nhọi nhọi, nó nhảy vọt tới mổ vào đầu. Con lươn bị đau quá vọt luôn vô bụng con chim rồi tuột ra sau đít. Tới con giang sen cũng vậy. Nó nhảy tới mổ vào đầu con lươn, con lươn vọt mạnh vô bụng, dùi luôn ra sau. Rồi lại đến con chàng bè cũng y vậy...

Một con lươn mồi của tui vọt đến chết xỏ lụi ít nhất cũng một chục con chim. Như vậy là cứ hai xâu làm một, tôi cầm mỗi tay một cây ngáng, la cho chim bay lên, mang tui theo. Tui bay bỗng mặt đất mà lái từng cặp xâu chim thả ra ví vô, về nhà giao cho bả trói đem ra chợ Sông Đốc bán. Vậy mới đã!

 

 

 

Bot